Miền
nam nước Pháp, trên bờ Địa Trung
Hải, thu gọn giữa hai khối núi Esterel
và Maures, thị trấn Fréjus nằm cách xa 20km
phía đông bắc Saint-Tropez, 26km phía tây nam
Cannes, hai thành phố từng nổi tiếng
trong ngành điện ảnh, Saint-Tropez với
minh tinh màn bạc Brigitte Bardot, Cannes với
những Festival hằng năm. Nguyên là một
hải cảng La Mă, những công tŕnh để
lại như Nhà hát, Vũ đài, Cầu máng,...dần
dần bị dân chúng phá hủy để dùng
làm nguyên liệu xây dựng một trung tâm
Trung Cổ. Qua thế kỷ 4, thị trấn
trở nên lớn nhờ một ṭa giám
mục được thành lập nhưng sau
đó lại suy đồi v́ cảng ngày
bị cát bồi. Ngày nay, với hơn một
trăm cây số vuông, Fréjus là thị trấn
lớn nhất phía đông tỉnh Var. Với
Saint-Raphaël, đây là quê hương tướng
Galliéni, một thời đă được
gởi qua b́nh định xứ Bắc Kỳ,
không dẹp nổi cuộc dấy binh Đề
Thám, về Pháp được phong Bộ trưởng
bộ Chiến tranh. Nhờ ông, năm 1915, qua
tay đại tá Lame và đại úy Delayen,
những trại gọi là "chuyển
tiếp khí hậu" được thành
lập ở đây để đón nhận
quân đội thuộc địa. Những
trại nầy nay không c̣n nữa, nhường
chỗ lại cho một Đài kỷ niệm
những cuộc Chiến tranh Đông Dương.
Trong trại, lẫn lôn với người châu
Phi, có một số binh sĩ quê gốc
Việt Nam được đem qua Pháp trong
Trung đoàn 4 Bộ binh Thuộc địa
từ thế chiến thứ nhất, nay c̣n có
tên ghi trên tường Đài
|
Luôn hướng
ḷng về quê hương, những binh sĩ
Việt Nam được phép xây dựng năm
1917 một ngôi chùa thờ Phật theo kiến trúc
Việt xưa trên ngọn đồi thấp cây
cối sum sê cạnh trại, quanh một ngă ba
trên đường đi Cannes. Khi chiến tranh
chấm dứt, quân binh Việt không mấy
chốc tản mát, chùa hết c̣n được
chăm non quét dọn và trở nên hoang tàn.
Một số mấy bà có chồng Pháp, ở
gần trại, như bà François Salmon cùng vị
phu quân, tự động đứng ra săn sóc
và xin bộ Quốc pḥng cho thuê chùa để
tiếp tục cúng bái. Năm 1967, họ thành
lập Hội Phật giáo Côte d'Azur, năm 1968
đổi thành Hội Phật giáo Pháp và năm
1970 trở nên Hội Phật giáo Pháp Việt.
Chùa gồm có hai phần : trước thờ
Phật, sau thờ mẫu và chiến sĩ .Mang
tên chùa Galliéni lúc ban đầu, chùa được
Ḥa thượng Thích Thanh Vực khi qua thăm
viếng và an ủi chiến binh, đặt cho
một tên có ư nghĩa hơn là Hồng Hiên
tự hay Chùa Hồng Hiên, theo hai câu đối
trong chùa ghi lại :
Hồng
Lạc linh căn phương Việt địa,
Hiên ngang hùng khí
tráng Âu thiên.
(Cội gốc linh
thiêng của ḍng Hồng Lạc, đă làm
lừng thơm nơi đất Việt,
Nay đem lại khí
phách anh hùng, làm vang dội mạnh cả
bầu trời Âu Châu).
Tự
ảnh cao tiêu dân tộc tính,
Nguyệt quang thâm
ấn bách tùng tâm.
(Bóng chùa nêu
cao hồn dân tộc,
Ánh trăng in sâu vào
ḷng cây tùng cây bách).
|
Th́ ra
Hồng là để nhắc nhở nguồn
gốc Hồng Lạc lừng thơm trên đất
Việt, một ṇi giống hiên ngang, khí phách
vang dội bên phương trời Âu. Hơn ba mươi
năm sau, khi cuộc chiến Pháp Việt
chấm dứt sau chiến trận Điện Biên
Phủ và hiệp định Gennève cắt hai
đất nước năm 1954, một số
người Việt di tản qua Pháp, chùa
mới lại được sửa sang. Tuy tài
chánh eo hẹp lúc ban đầu, nhờ sự
tận tâm của nhiều Phật tử,
nhờ sự đóng góp của nhiều vị
ân nhân, năm 1972 chùa được hoàn
tất trùng tu. Năm 1975, Hội mời Ḥa thượng
Thích Tâm Châu, Viện Trưởng Viện Hóa
Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất từ Bangkok qua trù tŕ và
một năm sau kiêm nhiệm Chủ tịch
Hội Phật giáo. Công lao mở mang chùa
của Ḥa thượng rất lớn. Từ nay
chùa là thành viên của Hội Phật giáo
Việt Nam Thế giới, trụ sở đặt
ở Montreal bên Canada. Nhờ quyên tiền
tậu thêm được đất, ban trị
sự mở rộng diện tích chùa lên hơn
6000 m2. Năm 1977, khuôn viên đản sinh đuợc
xây dựng. Năm 1978, chùa hănh diện khai trương
thiền đường, thư viện, pḥng
họp, pḥng tiếp tân. Năm 1979, chùa
được cúng dường một pho tượng
bằng đồng cao 2m, đúc ở Thái Lan, h́nh
dung đức Phật đạt đạo dưới
gốc cây bồ đề. Cũng trong năm
nầy, chính phủ Pháp tặng chùa cho Hội
Phật giáo để thành lập Trung tâm
Phật giáo.chùa Hồng Hiên. Vài năm sau, tượng
Phật nhập Niết bàn và nhóm tượng
đức Phật thuyết pháp lần đầu
tiên đuợc h́nh thành. Năm 1988 chùa xây tháp
An Lạc thờ vong hồn đồng thời
thỉnh một quả chuông Đại hồng
chung đúc theo mẫu chuông chùa Thiên Mụ
ở Huế. Năm 2008, chùa làm đại
lễ kỷ niệm 91 năm thành lập dưới
sự chủ tọa của Ḥa thượng Thích
Tâm Châu đến với tư cách Hội trưởng
Hội Phật giáo Việt Nam Thế giới cùng
nhiều vị chức trách trong Giáo hội
Phật giáo, bốn mươi sư thầy, sư
cô từ Canađa qua cùng nhiều phái đoàn
Phật giáo Úc châu, Au châu, Hoa Kỳ, Việt
Nam. |
Một
đặc sắc của chùa là bốn thời
kỳ quan trọng trong lịch sử Phật giáo
được tŕnh bày trong bốn khuôn viên : nơi
đức Phật đản sinh, nơi đức
Phật thành đạo, nơi đức
Phật thuyết pháp lần đầu tiên và nơi
đức Phật nhập Niết bàn. Tục
truyền trên đường về quê nằm nơi,
Hoàng hậu Maya (Mada) ghé lại nghỉ chân
ở vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni), thưởng
thức hoa tươi muôn màu, chim hát líu lo. Khi bà
giương tay vịn cành cây sala hay sal tức vô
ưu (Jonesia asoka hay Saraca indica) cúi
xuống ngang ḿnh th́ Thái tử Siddharta (Tất
Đạt Đa) sinh ra từ nách tay. Bên ta sala cũng
c̣n được gọi cây đầu lân, hàm
rồng, hay ngọc kỳ lân (Couroupita guianensis).
Sử Phật chép Ngài hướng về phía
Bắc, đi bảy bước, dưới chân
nở ra bảy hoa sen tươi thắm. Tay
mặt chỉ lên trời, tay trái chỉ
xuống đất, Ngài có câu nói tiên tri : "Ta
là đấng chí tôn cao quư nhất trên đời
! Đây là lần hóa kiếp cuối cùng,
ta sẽ không c̣n tái sinh trên cơi đời này
nữa.." Ngày nay, lễ Phật Đản
quốc tế có tên Vesak hay Vesakah hay Visaka, thường
được cúng ngày mồng tám tháng tư âm
lịch.Trong cảnh tŕnh bày ở chùa Hồng
Hiên, xung quanh sáu vị hầu cận, Hoàng
hậu Maya đứng sau, áo mủ màu đỏ,
thắt lưng và cánh áo mặt màu vàng, tay
mặt giương lên, những ngón tay cụp
lại như đang nắm cành cây. Thái tử
Siddharta đứng trước, trên một đóa
sen, đầu trần, áo vàng, hai tay chỉ lên
trời và xuống đất. Lumbini tọa
lạc dưới chân núi Himalaya (Hy Mă Lạp Sơn)
ở xứ Nepal, cách 36km biên giới Ấn
Độ, cách 25km kinh thành Kapilavatthu (Ca Ty La
Vệ) là nơi đức Phật đă
sống đến 29 tuổi, ngày nay là một
trong những nơi hành hương nổi
tiếng của Phật giáo. |
Khi Thái
tử Siddharta rời kinh thành của vua cha, Ngài
kiếm chỗ thích hợp cho một cuộc
thiền định. Sau một thời kỳ
khổ hạnh sáu năm thấy không đưa
đến giác ngộ, Ngài quyết chuyển qua
một hướng trung dung,Trung đạo,
từ bỏ những thái độ thái quá, Năm
người tỳ kheo anh em Kondanna (Kiều
Trần Như) theo Ngài từ trước, cho là
Ngài đă phản bội chí hướng,
rời bỏ đi nơi khác. Từ nay, một
ḿnh, sau khi xuống tắm trong ḍng sông Nairanjana
(Ni liên hà), uống bát sửa với mật ong
của cô Sujata cúng dường, Ngài lại
ngồi dưới gốc cây bồ đề (Ficus
religiosa) gần thị trấn Gaya (Già da) sau
nầy mang tên Bodh Gaya (Bồ đề đạo
tràng), nguyện sẽ không rời chỗ trước
khi đạt đến Chân lư. Thần chết
Mara sợ ngài thành công, sai những bầy
quỷ sứ cùng ba con gái lại phá phách,
quyến rũ. Nhưng Ngài thắng mọi xung kích,
cám dỗ, đạt chính pháp và đắc
đạo. Sau 49 ngày, Ngài giác ngộ ra giáo lư
Phật giáo, vào một buổi sớm mai
trời đẹp, thực chứng Tứ
Diệu Đế : Khổ, Nguyên Nhân của
Khổ, sự Diệt Khổ và Con Đường
Diệt Khổ.. Ngài đặt tay mặt
xuống đất viện đất làm
chứng những công đức Ngài đă đă
tích lũy từ nhiều tiền thân trong tư
thế địa xúc ấn Bhuḿsparshamudra.
Ngài c̣n ở lại đây bảy tuần
nữa, tận huởng sự giải thoát,
một thời gian kỳ diệu, không ăn, không
uống, trước khi lên đường đi
Sarnath. |
Sarnath
hay Mrigavasda (Lộc Uyển) là một thị
trấn ở tỉnh Uttar Pradesh, cách Varanasi (Ba la
nại) khoảng 10km. rút gọn từ chữ
Sarangnath (Sarang : Lộc, Nai và Nath : vua) Sarnath có
nghĩa là Vua các loài Nai, nên c̣n được
gọi Vườn Nai và đức Phật là
Lộc Vương. Có mặt ở đây, năm
vị tỳ kheo đă từng bỏ Ngài, lúc
ban đầu không muốn chào Ngài, nhưng khi
lại gần th́ choáng mắt trước hào
quang tỏa ra từ thân Phật. Biết Ngài
đă đạt đạo, t́m ra con đường
cứu khổ, liền tự động quỳ
xuống xin được thụ giáo sự
hiểu biết sâu xa của Ngài về bản
chất trí tuệ. Bắt đầu giảng pháp,
đức Phật tŕnh bày con đường
dẫn đến giác ngộ và giải thoát :
Tứ diệu đế, Duyên khởi và quy
luật Nhân quả (Nghiệp). Những bài
nầy thuộc kinh Chuyển pháp luân
Dhammacakkappavattana : Phật pháp ví như bánh xe lăn
khắp mọi nơi để dẹp trừ
phiền năo và mê hoặc. Năm vị tỳ
kheo đó trở thành năm đệ tử
đầu tiên của Đức Phật và là
hạt nhân đầu tiên của Tăng già. Ngày
nay ở Sarnath c̣n có di tích tàn rụi những
đến tháp xây dựng trong nhiều triều
đại khác nhau, có công nhiều nhất là
vua Ashoka (A Dục). Đặc biệt nơi
đức Phật ngồi thuyết pháp có tháp
Dhamekh (Chánh pháp) uy nghi cao 34m thay thế một tháp
xưa 200 năm trước TC. Giữa chính
điện có trụ đá Ashoka cao 20m nhưng mũ
cột bị quân Thổ Nhĩ Kỳ cắt
cụt. Mũ nầy hiện được trưng
bày trong viện bảo tàng Sarnath, thể
hiện bốn con sư tử xây lưng với
nhau là biểu hiệu ngày nay của nước
Cộng ḥa Ấn Độ. Ở chùa Hồng
Hiên, đức Phật được tŕnh bày
mặc áo vàng ngồi xếp bằng Padmasana
trước năm vị tỳ kheo, tay mặt
chỉ xuống đất trong tư thế
địa xúc ấn Bhuḿsparshamudra, ngón cái
đụng đầu ngón chỉ ở tay trái
trong tư thế giáo hóa ấn Vitarkamudra, say
sưa trong cuộc thiền định sâu đậm..
Xung quanh, vài con nai lặng yên như cũng
muốn lĩnh hội những lời giáo
huấn. |
Cảnh
đức Phật nhập Niết bàn là tượng
thứ tư trong Tứ Động Tâm. Sau 45 năm
thuyết giảng, sau khi tạo điều
kiện cho tỳ kheo có cơ hội cuối cùng
để chất vấn hay hỏi đáp, Ngài
đi về thị trấn Kusiganara (Câu Thi Na),
tiến đến một rừng cây sala ven phía
nam thành phố, theo truyền thuyết Pali th́ vào
ngày rằm tháng tư, văn bản Phạn
ngữ cho ngày rằm tháng mười một. Ngài
nằm giữa hai cây cao, nghiêng phía bên mặt,
đầu hướng về phía bắc, măt
hướng về phía tây, chân trái gác lên chân
mặt. Ngài ban những lời di huấn
cuối cùng : " Hăy lắng nghe, này các
đệ tử, Như Lai khuyên các con. Tất
cả các pháp hữu vi đều vô thường.
Hăy nỗ lực tinh tấn tu hành để
giải thoát " Thông qua các mức thiền
định (sơ thiền, nhị thiền, tam
thiền, tứ thiền), thọ 80 tuổi, Ngài
nhập diệt rồi vào Đại Bát
Niết Bàn Mahaparinibbana, một trạng thái
tịch tịnh, giải thoát cuối cùng
tịch diệt các phiền năo, một trạng
thái an tịnh, an lạc tuyệt đối.
Nếu khi giác ngộ dưới gốc cây
bồ đề, Ngài vào Niết Bàn có dư
y nghĩa là tham, sân si đă được
đoạn tận nhưng thân c̣n do quả báo
đời trước. Khi nhập diệt ở
Kusinagara, Ngài chứng Niết bàn không có dư
y th́ báo thân cũng không c̣n nữa nghĩa là
thân hết c̣n bị các phiền năo ám ảnh,
hết c̣n bị già, bệnh tật chi phối.
Sách Phật viết vào đúng lúc ấy tuy không
phải mùa, rừng hoa sala nở rộ, rơi
phủ đấy kim thân đức Phật,
trong vùng hoa Mạn Đà La và bột trầm hương
đổ xuống khắp nơi, bốn
huớng vang dội tiếng hát ca chúc tụng cúng
dường đức Thế Tôn. Chùa Hồng
Hiên tŕnh bày đức Phật dài 9m nằm như
đă tả trong sách, đầu gối lên tay
mặt, hai bàn chân song song, không có dấu xe pháp
Dharmacakra ơ bàn chân như thường
thấy ở Á Đông. |
Ngoài
Tứ Động Tâm, chùa có thiền viện bên
trong có tượng Tam Thế, ông Ác, ông
Thiện, chuông, trống, mỏ. Bên cạnh
cảnh Vườn Lộc Uyển có tháp An
Lạc thờ vong hồn, bên trong có tượng
Phật, đền các vị anh hùng tổ tiên
các vua Hùng Vương, Lư Thái Tổ, Trưng
Trắc, Trần Hưng Đạo. Bao quanh sân trước
thiền viện là một số các vị La Hán
hay A La Hán arhat là những người đă
từ bỏ ô nhiễm, các gánh nặng, đă
đạt mục đích và tâm thức đă
được giải thoát.. Rải rác trong vườn,
xen lẫn với cây cao, núp dưới bóng mát
là hai hàng các đức Phật Di Đà
tiếp dẫn, hai hàng các đức Quan Âm
rải nước từ bi, hai hàng các đức
Địa Tạng hai bên tầng cấp từ
cửa vào chùa. Ngoài ra, bên cạnh các các tượng
Phật, Di Lặc, c̣n có các tượng Địa
Tạng, Quan Âm, Văn Thù, Phổ Hiền. Địa
Tạng Kṣitigarbhalà
một vị bồ tát chuyên cứu độ
sinh linh trong địa ngục và trẻ con
yếu tử, cũng là người cứu giúp
lữ hành phương xa.. Ngài thường
cầm minh châu và tích trượng có sáu ṿng
cứu độ chúng sinh trong sáu đường
tái sinh Lục đạo. Tượng Ngài
được dựng bên cạnh thiền
viện như tượng đức Di Lặc.
Bồ tát Di Lặc Maitreya cũng là vị
Phật cuối cùng sễ xuât hiện trên Trái
Đất, thường được tŕnh bày
với tướng mập tṛn vui vẻ, trẻ
con quấn quít xung quanh. Ở chùa Hồng Hiên Ngài
và trẻ con đứng trên cầu bắc qua
một bể cạn hoa sen. Bồ tát Quan Âm
Avalokitesvara là tên của vị bồ tát QuánThê
Âm, hiện thân trong mọi h́nh dạng để
cứu độ chúng sinh, nhất là trong các
nạn lửa, nước, quỷ dữ và
đao kiếm. Tranh tượng thường tŕnh
bày Ngài dưới nhiều dạng khác nhau, ngh́n
mắt ngh́n tay, ẳm đứa bé trên tay, tay
cầm hoa sen.... Ở chùa Hồng Hiên, Ngài
cầm b́nh nước Cam Lồ. Hai vị
bồ tát thường được tŕnh bày
cạnh các đức Phật và Quan Âm là Văn
Thù và Phổ Hiền. Văn Thù Manjusri là tên
tắt đức Văn Thù Sư Lợi,
một vị bồ tát tượng trưng cho
trí tuệ, thường mang kiếm và cưởi
sư tử. Phổ Hiền Samantabhadra là
vị bồ tát có năng lực hiện thân
khắp mười phương pháp giới tùy
mong cầu của chúng sinh mà hiện thân hóa
độ, cưỡi voi trắng sáu ngà. Ở
chùa Hồng Hiên, tượng hai Ngài được
dựng trước tượng đức
Phật nhập Niết bàn, áo quần được
sửa lại trong kỳ trùng tu so với hai tượng
cũ. Trong vườn, lẫn lộn với cây
cỏ c̣n có một số thú vật từ
những con được nuôi như chó, dê, cá,
rùa đến những con ít thấy hơn như
cọp, cá sấu hay rồng... đưa chùa vào
một cảnh thiên nhiên cần thiết cho
một nơi thờ Phật. |
Ngoài ra,
chùa Hồng Hiên c̣n là một trung tâm Phật giáo,
một trung tâm văn hóa không những cho người
Việt mà c̣n cho cả một vùng trên bờ
Địa Trung Hải. Lúc ban đầu, chùa
chỉ có hoạt động trong phạm vi hai
tỉnh Alpes-Maritimes và Var, dần dần mở
rộng ra các tinh Bouches-du-Rhône, Lot-et-Garonne,,...ngay
cả các nước lân cận. Sau 1975, người
Việt di cư đông đúc vào nước Pháp,
mỗi vùng xây chùa riêng, chùa Hồng Hiên
trở về lại phạm vi hai tỉnh lúc ban
đầu. Mặc dầu vậy, ngày nay chùa có
vai tṛ quan trọng trong hoạt động văn
hóa của vùng, ty du lịch thành phố không quên
ghi tên chùa trong danh sách những di tích cần thăm
viếng. Ḥa thượng Thích Minh Châu có
một số bài thơ vịnh chùa : Hồng
Hiên tự sự, Hồng Hiên tự
cảnh và sau đây Hồng Hiên cổ
trại (Fréjus, tháng10, 2002) |
Hồng
Hiên cổ trại
Hồng
Hiên cổ trại tráng Âu thiên,
Hùng khí hiên ngang
chiến sĩ truyền.
Bát ngũ
tiền thi nghĩa dũng,
Danh lam viễn
chấn lạc kim niên.
Trại
cũ Hồng Hiên
Trời
Âu, trại cũ Hồng hiên,
Hiên ngang hùng khí
vang truyền chiến binh.
Tám lăm năm
nghĩa dũng thành,
Ngày nay chùa
cảnh uy danh lẫy lừng.
Ḥa
thượng Thích Minh Châu
|
Viếng
chùa Hồng Hiên hai lần, mỗi lần tôi
thấy chùa được bảo quản
tốt, lần sau nầy sư cô luôn bận
tiếp khách hành hương, sư thầy loay
hoay đốc suất nhân công sửa sang vườn
tược. Tôi rất tiếc không có dịp
đàm đạo với các thầy, các cô
để học hỏi nhiều hơn về
mặt lich sử nguyên gốc của chùa,
về các vị trù tŕ liên tiếp ở đây.
Mặc dầu nội bộ vừa rồi có
chuyện lủng củng nhưng nghe nói đă dàn
xếp ổn thỏa. Riêng phần tôi, tôi
rất hảnh diện được thảnh
thơi đi dạo trong ngôi chùa Việt Nam
cổ nhất nước Pháp, kiến trúc các tượng
lắm khi mộc mạc khêu gợi biết bao
kỷ niệm thời xưa. Đằng khác, tôi
vui mừng nhận thấy văn hóa Phật giáo
đang phát triển mạnh mẽ ở nước
ngoài, ở châu Âu (Pháp, Anh, Đức, Thụy
Sĩ, Na Uy, Ḥa lan, Ái Nhi Lan) cũng như ở
châu Mỹ, châu Úc, những nơi đă
thấy có phát triển nhiều tôn giáo khác. |
Hồng
Hiên tới dễ, khó về,
Nhớ nhà, nh́n
cảnh, hồn quê nhẹ nhàng.
Mái chùa cổ kính
hiên ngang,
Ngựa voi
rồng cá hàng hàng tiếp nghinh.
Ḥa
Thượng Thích Tâm Châu
(Hồng Hiên
tự cảnh, 2002)
Mừng
Phật Đản 2557
Sau
hai lần viếng chùa 2001-2012
|
|