460 năm Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa (1558-2018) |
Nay ta
thử t́m hiểu về sự kiện tạm gọi là
nghi án Nguyễn Uông trong
mối quan hệ Nguyễn
Kim, Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng với Trịnh
Kiểm.
Tác giả: Trần Viết Ngạc Nguyễn Phúc tộc thế phả chép về Nguyễn Hoàng có đoạn: “Năm Ất Tỵ (1545) đức Triệu Tổ
mất, lúc này ngài 21 tuổi, được tập phong tước
Hạ Khê Hầu… Đời Lê Trang Tông,
ngài được tấn phong tước Đoan
Quận công, khi Trịnh
Kiểm chuyên quyền, ám hại Lăng Quận công Nguyễn Uông (anh của ngài), ngài nghe mưu
của cậu là Nguyễn
Ư Kỷ, cáo bệnh giữ ḿnh. Hiểu ư câu nói
của Trạng Tŕnh
Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại chung thân”
và theo lời khuyên của
cậu, ngài nhờ chị Ngọc Bảo xin với
Trịnh Kiểm (chồng của bà Ngọc Bảo) cho
vào trấn đất Thuận Hóa”.[1] Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại
Việt sử kư toàn thư (trong
lời chú của dịch giả) và những tác
giả viết về chúa Nguyễn, triều Nguyễn
đều viết với nội dung tương tự. Tuy nhiên, Đại
Việt sử kư toàn thư (chính văn), Phủ biên
tạp lục, Đại Việt thông sử đều không nói đến sự kiện Trịnh
Kiểm ám hại Nguyễn Uông và cả câu chuyện
Nguyễn Hoàng nhờ chị Ngọc Bảo xin vào
trấn Thuận Hóa theo lời khuyên của Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Nay ta thử t́m hiểu về sự kiện tạm
gọi là nghi án Nguyễn Uông trong mối quan hệ Nguyễn
Kim, Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng với Trịnh
Kiểm. Năm 1533, khi Nguyễn Kim đưa Lê Ninh lên làm vua ở núi
rừng Thanh Hoá (Trang Tông) cũng chính là lúc tài năng quân sự Trịnh Kiểm về với
Nguyễn Kim và được Nguyễn Kim gả con gái
là trưởng nữ Ngọc Bảo. Năm đó, Nguyễn Kim
đă 65 tuổi, Trịnh
Kiểm ở vào tuổi lập thân (ba mươi),
chín chắn, sau một thời gian lang bạt, c̣n
Nguyễn Hoàng mới 8 tuổi, anh là Nguyễn Uông
chắc cũng chưa đến hai mươi! (Trưởng
nữ Ngọc Bảo, theo Đại Việt Lê
triều đế vương trung hưng thật
lục, lúc kết hôn với Trịnh Kiểm c̣n là con
gái trẻ).[2] Các nguồn tài liệu đều cho biết trước
khi Nguyễn Kim mất,
Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng chưa tham gia chiến
trận cùng cha và anh rể, trong khi Trịnh Kiểm đă tích cực giúp Nguyễn
Kim đánh đông dẹp bắc, gầy dựng
thế lực Nam triều ngay từ buổi đầu. Năm
1539, Trịnh Kiểm đă được phong tước
Quận công. Hơn Nguyễn Hoàng những 22 tuổi, là anh rể và
đă có sự nghiệp, Trịnh Kiểm và Nguyễn
Hoàng chẳng phải là đối tượng tranh giành
địa vị và quyền binh của nhau. Có chăng
là với Nguyễn Uông, trưởng
nam của Nguyễn Kim. Tuy đă lớn tuổi (77 tuổi) Nguyễn Kim chưa
kịp chuẩn bị địa vị thừa kế
cho con trưởng th́ đă chết đột
ngột. Có lẽ Nguyễn Uông không bằng ḷng
với chức tước tập ấm là Lăng Xuyên
hầu cùng với em là Hạ Khê hầu trong lúc
Trịnh Kiểm được vua Lê phong làm “Tiết
chế các xứ thủy bộ chư linh, tước Lương
Quốc công, được quyền nắm giữ
việc binh và tổng tài chính trị, trị dân,
dạy người, tuyên bố uy đức…”[3] Đại Việt sử kư toàn thư ghi: “Tháng 5 ngày 20 Ất Tỵ,
Nguyễn Kim mất… vua Lê phong Trịnh Kiểm làm
Đô tướng Tiết chế các dinh thủy bộ
kiêm Tổng nội ngoại B́nh chương quân
quốc trọng sự, Thái sư Lượng Quốc công.
Mọi
binh quyền ngoài khổn, công việc trong nước,
trù tính mưu lược, phong tước bổ quan xa
gần đều được tùy ḿnh quyết định
rồi sau mới tâu vua.”[4] Toàn thư và Đại Việt thông sử không nói ǵ
về sự kiện tranh chấp quyền hành đưa
đến cái chết của Nguyễn Uông. Nguyễn Phúc tộc thế phả cho là “Trịnh Kiểm tranh
đoạt quyền hành “nên ám hại ông”[5] viết
như thế chẳng hợp lư chút nào! Uông làm ǵ có
quyền hành để Trịnh Kiểm tranh đoạt.
Nguyễn Kim chết, Trịnh Kiểm đương nhiên
nắm hết quyền và vua Lê chỉ công nhận
thực tế ấy mà thôi. Nguyễn Uông trên danh nghĩa là kẻ thừa kế lư
thuyết v́ là trưởng nam của Nguyễn Kim, nhưng
Nguyễn Kim đang c̣n lo đánh Mạc cùng Trịnh
Kiểm, chưa chuẩn bị ǵ cho việc thừa
kế (nếu có) của Nguyễn Uông. Có thể nghĩ rằng Nguyễn Uông không bằng ḷng
vua Lê v́ đă không nghĩ đến công lao tôn
lập và gầy dựng Nam triều của cha ḿnh.
Nỗi bất măn của Nguyễn Uông có thể đă
được một số tùy tướng của
Nguyễn Kim chia sẻ. Lê Quư Đôn, trong Phủ biên tạp lục, hé
lộ một số chi tiết: “Bọn Lăng quận công
ngờ vua có mưu ǵ, toan làm loạn. Thế tổ
[Trịnh Kiểm] bấy giờ làm đại tướng
quân Dực quận công rước vua đến
bản dinh, xin hết sức giúp đỡ. Lại
hiểu dụ bọn Lăng quận công bỏ hết
hiềm khích”.[6] Sau sự kiện “toan làm loạn này” Nguyễn Uông c̣n được
phong đến tướng Quận công. Trong khoảng thời gian 1549 đến 1556, Phủ
biên tạp lục chỉ đề cập đến
Nguyễn Hoàng nhờ lập quân công mà được
thăng Đoan quận công mà không nói ǵ về
Nguyễn Uông. Do đó, ta có thể phỏng đoán Uông
chết trong khoảng thời gian từ 1546 đến năm
1549. Uông đă chết như thế nào, vào năm nào?
Không có tài liệu nào cho biết. Có một điều khó hiểu là các tài liệu
của nhà Nguyễn dù khẳng định là Uông
chết một cách không minh bạch (do ám hại), và
quả quyết là do Trịnh Kiểm nhưng không
thể nói rơ Uông đă bị “ám hại” như
thế nào, vào năm nào. Tiểu sử của
Nguyễn Uông trong Nguyễn Phúc tộc thế phả và
trong Đại Nam liệt truyện tiền biên rất
sơ sài. Cả hai nguồn tư liệu chính thống
đó không cho biết năm sinh, năm mất, thân
mẫu, vợ và các con của Nguyễn Uông. Chỉ có
một chi tiết hiếm hoi là Nguyễn Uông có một
người con là Nguyễn Uyên đă theo Nguyễn Hoàng vào
Thuận Hoá năm 1558. Có một sự kiện nào đó dẫn đến cái
chết của Nguyễn Uông mà sử chính thống
của nhà Nguyễn không muốn nhắc đến chăng? Nguyễn
Kim có ba bà vợ và ba nguời con. – Bà vợ chính Nguyễn Thị Mai (được
phong là Tĩnh Hoàng hậu) chỉ sinh một người
con là Nguyễn Hoàng. Bà
Mai có một nguời em gái là Nguyễn
Ngọc Dương là vợ của Mạc Cảnh
Huống. – Bà vợ thứ (thứ phu nhân) là Đỗ Thị
Tín, sinh ra truởng nữ Nguyễn Thị Ngọc Bảo,
vợ của Trịnh Kiểm. – Bà thứ ba, khuyết danh, sinh ra Nguyễn
Uông là con truởng của Nguyễn Kim. Tại sao sự kiện Nguyễn Uông bị giết
quan trọng như thế (đối với họ
Nguyễn) lại thiếu minh bạch? Tại sao nhân thân
của Nguyễn Uông lại được chính sử
nhà Nguyễn ghi nhận một cách sơ sài và
thiếu sót như thế? Tất nhiên, sự suy đoán
nào cho dù hợp lư th́ cũng không thể là sự
thực lịch sử! Ta chỉ có ghi nhận một vài
điểm: – Không có
tranh chấp giữa Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng. – Trịnh Kiểm không tranh đoạt quyền hành
với Nguyễn Uông v́ quyền hành của Trịnh
Kiểm là do Trịnh Kiểm được nắm
giữ sau cái chết đột ngột của
Nguyễn Kim. Có chăng là Nguyễn Uông muốn giành
quyền với Trịnh Kiểm v́ Nguyễn Uông là
kẻ thừa kế theo huyết thống mà thôi. V́ vậy, ta chỉ có thể kết luận là cái
chết của Nguyễn Uông và cả nhân thân của
Nguyễn Uông là không rơ ràng, thiếu chứng cứ (mà
đáng ra phải có) và nên xem sự kiện ấy là
một nghi án lịch sử mà thôi. Nếu Nguyễn Uông không phải do Trịnh Kiểm ra
tay ám hại th́ tại sao Nguyễn Hoàng phải lánh thân
vào Thuận Hóa năm 1558? Câu hỏi này không khó trả lời: Sau cái chết của Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng lúc
đó được 20 tuổi, được tập
phong là Hạ Khê hầu và được cầm quân
chống Mạc. Lập được chiến công,
chỉ ba năm sau, Hoàng được thăng Đoan
Quận công (1548). Từ sau khi Nguyễn Uông chết, chúng
ta không có chứng cứ ǵ việc Nguyễn Hoàng
ở vào t́nh thế khó khăn với anh rễ là
Trịnh Kiểm. Sự kiện Nguyễn Hoàng cho người
hỏi ư kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm (nếu có)
chỉ có thể xảy ra sau khi Nam triều làm chủ
được Thuận Hóa (1554). Ở thời điểm
này, sự có mặt của Nguyễn Hoàng ở Thanh Hoa
có thể gây ra mối lo cho Trịnh Kiểm. Tại
sao? Vào năm 1554, Trịnh Kiểm đă ngoài 50 tuổi và
Nguyễn Hoàng sắp bước vào tuổi mà
Trịnh Kiểm theo về với Nguyễn Kim (ba mươi).
Trịnh Cối và Trịnh Tùng c̣n quá nhỏ (Trịnh
Tùng sinh năm 1550). Nếu chẳng may Trịnh Kiểm
gặp nạn như Nguyễn Kim th́ sự nghiệp Nam
triều chắc chắn sẽ rơi vào tay Nguyễn Hoàng
như trường hợp Trịnh Kiểm thừa hưởng
quyền binh của Nguyễn Kim trước đây.
Nguyễn Hoàng có mặt ở Nam triều vào giai đoạn
này là một mối lo cho Trịnh Kiểm. Nguyễn
Ư Kỷ và những người pḥ tá Nguyễn Kim
buổi đầu cũng hiểu như thế. Tranh giành
quyền với Trịnh Kiểm là điều không
thể, vậy tốt nhất là lánh thân một
thời gian để Trịnh Kiểm yên tâm sắp
đặt kẻ kế thừa. Trịnh Kiểm chấp thuận cho Nguyễn Hoàng vào
Thuận Hóa như ta đă thấy không phải là
với dă tâm như các sử gia nhà Nguyễn suy
diễn là đưa em vợ vào chỗ “xa xôi, lam chướng”
và mượn tay nhà Mạc để loại trừ
một kẻ “đối lập”! Cũng như sự kiện Nguyễn Uông bị
giết, Đại Việt thông sử cũng như
Phủ biên tạp lục, Đại Việt
sử kư toàn thư không hề có thông tin ǵ
về việc Nguyễn Hoàng “t́m chỗ dung thân”,
tránh việc Trịnh Kiểm có thể sát hại. Sự kiện phái Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa theo Đại
Việt thông sử là thực hiện một
chiến lược của Trịnh Kiểm: “Xứ Thuận Hóa là một kho tinh binh trong thiên
hạ, buổi đầu quốc triều ta bắt
đầu gầy dựng cơ nghiệp cũng đă
dùng dân xứ ấy để dẹp yên giặc Ngô.
Xứ ấy, địa thế hiểm trở, dân khí
cương cường, lại có nhiều nguồn
lợi trên rừng dưới biển, là vùng trọng
yếu không xứ nào hơn. Gần đây, quan quân kinh lược hàng mấy
chục năm trời mới lấy được.
Vậy nên hết sức bảo vệ, để làm
một bức b́nh phong vững chắc…. Hạ
thần xét thấy con trai thứ của Chiêu Huân Tĩnh
công là Nguyễn Hoàng, là một người trầm tĩnh,
cương nghị, lại có mưu lược, đối
với quân sĩ có độ lượng khoan dung,
giản dị. Vậy xin bổ ông làm trấn thủ,
để trị an nơi biên thùy và chống giặc
ở miền Bắc kéo vào; và lại cùng Trấn
Quận Công [Bùi Tá Hán] ở xứ Quảng Nam, cùng làm
thế cứu viện lẫn nhau. Hết thảy các
việc to nhỏ ở địa phương ấy,
xin đều để ông tùy nghi định đoạt,
lại xin ủy cho ông thu các sắc thuế, nộp
về triều đ́nh đúng kỳ hạn, để
thêm vào sự chi tiêu trong nước. Như vậy, th́ một vùng Ô Châu, khỏi phải
để ư lo tới, hạ thần sẽ khỏi
phải phân tâm, mà chỉ dốc hết ư chí về
việc đông chinh: bắt đầu kinh lư ở
xứ Sơn Nam và xứ Sơn Tây rồi thứ đến
khôi phục kinh đô cũ, tiểu trừ thoán
nghịch. Nghiệp trung hưng sẽ có thể sớm
thành công”. Vua Anh Tông thi hành theo ư kiến này, từ đấy
Mạc Phúc Nguyên không dám ḍm ngó tới hai xứ
Thuận Quảng.[7] Nếu mục đích chỉ đẩy ông em vợ
đi vào chỗ hiểm nguy, Trịnh Kiểm không
nhọc công tŕnh bày với vua là một kế
hoạch toàn diện và lâu dài như thế. Kế
hoạch đó trên thực tế cho thấy người
kế nhiệm Trịnh Kiểm đă thực hiện
thành công. Nêu những đức tính của Nguyễn Hoàng và cho
Nguyễn Hoàng được tùy nghi định đoạt
mọi việc lớn nhỏ ở Thuận Hóa,
Trịnh Kiểm tỏ ra không phải là một người
nhỏ nhen, biết xếp đặt công việc để
Nam triều thêm vững chắc và thực hiện công
việc chống Mạc thành công. Tất nhiên việc Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa làm
cho Trịnh Kiểm yên tâm, không phải lo “lịch
sử năm 1545 lặp lại”. Chuyến đi
của Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa không phải là
chuyến đi của một người cùng đường
t́m chỗ dung thân. Trịnh Kiểm đă cho phép
cả một đoàn tháp tùng vị tân trấn
thủ: “Hương khúc huyện Tống Sơn và nghĩa dơng
Thanh Hoa…, một số quan quân hai trấn Thanh Hoa và
Nghệ An cũng t́nh nguyện theo vào. Các ông Nguyễn
Ư Kỷ,… Mạc Cảnh Huống đều đem
con em và gia quyến vào Nam với Đoan Quận công”.[8] Tổng số những người vào Thuận Hóa cùng
với Nguyễn Hoàng lên đến cả ngàn người.
Đây là lực lượng ṇng cốt của
Nguyễn Hoàng khi vào đến Ái Tử. Chẳng
những thế, Tống Phước Trị (Luân
Quận Công) đang là trấn thủ Thuận Hóa cùng
nhân sự tam ty đều ở lại theo giúp
Nguyễn Hoàng. Việc Nguyễn Hoàng trở ra Tây Đô năm 1569 cùng
làm cho ta tin rằng Nguyễn Uông chết không phải là
do Trịnh Kiểm trừ khử. Lần này, Nguyễn
Hoàng sau khi yết kiến vua Lê ở cung An Trường,
đă “đến phủ Thượng tướng
lạy mừng, giăi bày t́nh cảm anh em, rất thương
yêu quư mến nhau”.[9] Tuy nhiên, lần hội ngộ sau 11 năm anh em xa cách này
lại làm cho Trịnh Kiểm lo ngại. Trịnh Kiểm vào lúc này đă 66 tuổi, trải qua
36 năm xông pha chiến trường trong cuộc xung
đột Nam Bắc triều. Trịnh Kiểm biết
vận số của ḿnh sắp hết và nếu
chẳng may khi buông tay từ bỏ quyền bính mà
Nguyễn Hoàng c̣n hiện diện ở Thanh Hoa th́
lịch sử 25 trước sẽ lặp lại:
Nguyễn Hoàng sẽ là người thừa kế
thực tế và hợp lư. Nguyễn Hoàng 45 tuổi
trong khi Trịnh Cối, Trịnh Tùng ở vào trạc
tuổi Nguyễn Hoàng lúc Nguyễn Kim mất. Phải đưa Nguyễn Hoàng mau trở về
Thuận Hóa. Muốn vậy, Trịnh Kiểm đă tâu
vua Lê cho Nguyễn Hoàng kiêm luôn trấn thủ Quảng
Nam (rút Nguyễn Bá Quưnh về trấn thủ Nghệ
An) Nguyễn Hoàng được thêm đất lại
cởi bỏ được sự kiềm chế
ở phía Nam. Vị tổng trấn vui vẻ mà trở
về Thuận Quảng và Trịnh Kiểm yên tâm
nhắm mắt. Nguyễn Hoàng ra Thanh Hoa vào tháng 6 năm Kỷ Tỵ
(1569), trở về tháng Giêng năm Canh Ngọ với
chiếc ấn Tổng trấn tướng quân. Ngày 18 tháng 2 năm Canh Ngọ (1570) Trịnh Kiểm
mất. Tờ thị của Tổng Trấn Thuận
Quảng năm 1597 Chính quyết định cho Nguyễn Hoàng kiêm nhiệm
chức thấn trủ Quảng Nam của Trịnh
Kiểm đă làm cho sự nghiệp của Nguyễn Hoàng
thêm rạng rỡ, tạo điều kiện cho
Nguyễn Hoàng mở mang thêm vùng biên viễn từ
đèo Hải Vân cho đến tận Đèo Cả sau
khi đă xây dựng Thuận Hóa thành một vùng đất
hứa: “Cai trị hơn mười năm, chính sự khoan ḥa,
việc ǵ cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép
công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán
kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yên tín phục,
cảm nhận mến đức, dời đổi
phong tục, chợ không hai giá, người không ai
trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng,
thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua
bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang,
ai cũng cố gắng, trong cơi đều an cư
lạc nghiệp”.[10] Trấn Quảng Nam bấy giờ như tên gọi là vùng
đất phía nam sông Thu Bồn trải dài đến
tận Đại Lănh, gồm 3 phủ, 9 huyện.
Phủ Thăng Hoa lănh ba huyện: Lê Giang, Hà Đông, Hy
Giang. Phủ Tư Nghĩa lănh ba huyện: Bồng Sơn,
Phù Ty, Tuy Viễn. Huyện Tuy Viễn không chỉ là phần lănh thổ
tận cùng phía nam, giới hạn bởi đèo Cù Mông
như nhiều nhà nghiên cứu nhận định mà
trải dài đến tận đèo Đại Lănh là
phần lănh thổ mà Lê Thánh Tông trong cuộc nam chinh năm
1471 chiếm được và đặt tên là thừa
tuyên Quảng Nam. “Núi Thạch Bi [núi Đá bia] ở phủ Phú Yên là
chỗ tiên triều phân định địa giới
Chiêm Thành, núi đến rất xa, từ đầu
nguồn liên lạc đến bờ biển. Núi này
cao hơn các núi khác Thánh Tông đánh được
Chiêm Thành [1471], lấy đất đặt xứ
Quảng Nam, lập ḍng dơi vua Chiêm Thành cũ, phong cho
đất tự núi ấy trở về phía tây,
tạc đỉnh núi lập bia làm địa giới,
xoay lưng về phía bắc, mặt về phía nam…”.[11] Năm 1592, Trịnh Tùng thu phục được Đông
Kinh trong tay nhà Mạc. Nguyễn Hoàng lúc bấy giờ
đă 68 tuổi vẫn nối chí cha, hết ḷng
ủng hộ việc khôi phục nhà Lê, đem tướng
sĩ, voi ngựa, binh thuyền đến kinh đô
mừng vua Lê. Ông này cũng nạp sổ sách binh lương,
của cải, vàng bạc, châu báu và kho tàng hai
trấn Thuận, Quảng. Vua Lê phủ ủy: “Ông
trấn thủ hai xứ, dân nhờ được yên,
công ấy lớn lắm”, rồi tấn phong làm
Trung quân đô đốc phủ đô đốc, chưởng
phủ sự, Thái úy Đoan Quốc công”.[12] Nguyễn Hoàng đă giúp Trịnh Tùng đánh quân
Mạc ở Sơn Nam, Hải Dương, miền
Bắc th́ đánh Thái Nguyên, miền Tây th́ đánh Tuyên
Quang, hộ giá rước vua đến Nam Quan ở
Lạng Sơn đó giảng ḥa với quan tam ty nước
Đại Minh đều có công.[13] Trong thời gian bị Trịnh Tùng lưu lại ở Thăng
Long không muốn cho về, lúc nào ông cũng nghĩ
đến Thuận Quảng nơi ông đă bỏ công
sức gầy dựng. Năm 1597, ông sai Lương Văn
Chánh trở lại nhiệm sở cũ là huyện Tuy
Viễn, thuộc phủ Tư Nghĩa trấn Quảng
Nam để đưa lưu dân vào khai thác phần
đất huyện Tuy Viễn bên kia đèo Cù Mông. Tờ thị ấy hiện nay c̣n được lưu
giữ ở Đền thờ Lương Văn Chánh
ở Tuy Ḥa, Phú Yên. Nội dung tờ thị như sau: Phiên âm: Thị Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh năng
ṭng quân nhật cửu hữu công, quyền Tuy Viễn
huyện, An Biên trấn, văn: Liệu suất Bà Thê xă trục hạng nhân số tính
khách hộ các thôn phường ṭng hành ứng vụ,
nhưng suất thủ chiết biệt khách hộ nhân
dân tựu Cù Mông, Bà Đài, Bà Diển, Đà Niểu
đẳng xứ, thượng chí nguồn đầu,
hạ chí hải khẩu, kết lập gia cư địa
phận, khai canh hoang điều nhàn thổ để
thục nạp thuế như lệ. Nhược
chủ sự nhiễu dân, khám đắc xử
tội. Tự thị. Quang Hưng, nhị thập niên, nhị nguyệt sơ
lục nhật Ấn: Tổng trấn tướng quân chi ấn Dịch nghĩa: Dạy Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh đă
giữ việc quân lâu ngày, có công trạng, quyền
coi huyện Tuy Viễn, trấn an Biên rằng: Hăy liệu đem số người trục vào dân
của làng Ba Thê và các thôn phường khách hộ ṭng
hành ứng vụ, rồi lấy riêng số dân khách
hộ đưa đến các xứ Cù Mông, Bà Đài,
Bà Diển, Bà Niểu, trên từ đầu nguồn dưới
tới cửa biển, kết lập địa
phận gia cư khai canh ruộng đất bỏ hoang
tới khi thành thục, nạp thuế như lệ thường.
Nếu lo việc mà nhiễu dân, khám ra sẽ bị
xử tội. Nay dạy Quang Hưng, năm thứ hai mươi, ngày mồng sáu
tháng hai [1597] Ấn: Tổng trấn tướng quân chi ấn H́nh thức và nội dung tờ thị trên cho chúng ta
hiểu thêm nhiều điều. 1.
Lương Văn Chánh cùng ra Thăng Long với
Nguyễn Hoàng năm 1593, lập nhiều công trạng
trong việc đánh Mạc nên đă được
phong Phụ Quốc Thượng Tướng quân Tham
đốc Thần Vũ tứ vệ, tước Phù
Nghĩa hầu.[14] Trong
tờ thị, Nguyễn Hoàng không dùng chức tước
mới của ḿnh và của Lương Văn Chánh.
Phải chăng chức tước mới chỉ là
chiếc lồng son muốn cầm giữ Nguyễn Hoàng
và các bộ tướng nên Nguyễn Hoàng muốn
từ khước? Với chức vụ trước năm 1593, Tổng
trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng đă ra
lệnh cho thuộc cấp cũ của ḿnh là Lương
Văn Chánh, quyền huyện Tuy Viễn trở lại
nhiệm sở cũ để đốc xuất quân vào
khai phá ruộng hoang ở bên kia đèo Cù Mông đến
đèo Đại Lănh, thiết lập làng mạc. 2.
Cũng cần chú ư ấn Tổng Trấn tướng
quân được đóng ngay dưới niên hiệu
như cách đóng ấn của nhà vua. Nếu cách
thức đóng ấn triện dưới triều Lê cũng
tương tự như dưới triều Nguyễn
sau này, th́ Nguyễn Hoàng đă tự xem ḿnh đứng
đầu một cơi như các chúa Nguyễn về sau. 3.
Theo lệnh sai phái này Lương Văn Chánh đă
trở lại Tuy Viễn vào khoảng mùa xuân năm
Quang Hưng thứ 20 (1597). Như vậy việc
đưa dân vào khai canh hoang điền nhàn thổ
đă bắt đầu vào giữa năm. 4.
T́nh trạng dân cư trong vùng phía Nam đèo Cù Mông cho
đến Thạch Bi Sơn Đại Lănh như
thế nào? Trước hết lệnh của Nguyễn Hoàng cho Lương
Văn Chánh cho thấy vùng đất tỉnh Phú Yên ngày
nay, trước năm 1597 là vùng đất của
Đại Việt. Chẳng những thế, t́nh h́nh
rất ổn định. Đại Nam Nhất
thống chí cũng cho rằng vùng đất phía
Bắc Thạch Bi Sơn đă là lănh thổ Đại
Việt kể từ năm 1471. Tuy nhiên, “… từ Cù
Mông về phía Nam c̣n thuộc về người Man người
Lạo”.[15] Lương
Văn Chánh đưa dân vào canh tác trên phần đất
của huyện Tuy Viễn chưa thiết lập làng
mạc, dân cư c̣n thưa thớt nên một số
ruộng vườn của người Chăm trước
đây c̣n bỏ hoang. Số ruộng, vườn mà văn
bản gọi là hoang điền nhàn thổ chắc
chắn không phải là đa phần diện tích
của vùng này, được phân bố rải rác
khắp nơi từ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diển,
Đà Niểu… và từ đầu nguồn xuống
đến hải khẩu. Tờ thị cũng cho thấy số dân huy động
vào canh tác không nhiều. Điều đó cho thấy,
trước năm 1597, dân cư trên phần đất
Tuy Viễn chưa thiết lập làng mạc này cũng
khá đông. Họ là người Chăm ở lại và
là người Việt di dân vào. Có thể suy đoán là
đất rộng người thưa, họ chọn
lựa những nơi canh tác thuận lợi về
nguồn nước, về giao thông và đất đai
tương đối màu mỡ. Đó là một quá tŕnh
quần tụ dân cư, canh tác đất đai,
từ cuối thế kỷ XV đến cuối
thế kỷ XVI. Đến những năm cuối thế kỷ XVI, t́nh
h́nh đă chín muồi để di dân tăng thêm
nguồn nhân lực canh tác đất đai c̣n
thừa để đi đến việc thiết
lập làng mạc. Thời gian di dân, khai thác ruộng
đất bỏ hoang chỉ chưa đầy một
thế hệ v́ đến năm 1611, mười
bốn năm sau lệnh cho Lương Văn Chánh,
Nguyễn Hoàng đă cho thiết lập phủ Phú Yên
với hai huyện Đồng Xuân và Tuy Ḥa. 5.
Lệnh c̣n nghiêm cấm “không được nhiễu
dân, nếu khám ra sẽ bị xử tội”. Người
dân mới vào được canh tác trên các hoang
điền, nhàn thổ và không được xâm
phạm đất đai của những người
đang canh tác cũng như không được làm xáo
trộn đời sống nhân dân đă định cư
trước đó. Chính sách mở mang kinh tế nông
nghiệp trên phần đất mới phải phù
hợp với châm ngôn mà Nguyễn Hoàng đă đặt
ra để “dung thân muôn đời” là thu
phục nhân tâm, chiêu hiền đăi sĩ. Một công việc quan trọng như thế được
giao trách nhiệm cho Phù Nghĩa hầu Lương Văn
Chánh trong một t́nh thế rất đặc biệt:
Vị Tổng trấn đang bị Trịnh Tùng
giữ lại ở Thăng Long chưa biết
được ngày nào “hổ lại về
rừng”. Năm 1600 là năm mà Trịnh Tùng bắt
đầu xưng vương, cha truyền con nối cũng
là năm Nguyễn Hoàng bằng mưu lược đă
thoát được về Thuận Hóa. Tờ thị đă cách chúng ta 416 năm, nhưng
chiếc ấn “Tổng trấn tướng
quân chi ấn” đóng trên tờ thị cách chúng
ta đến 443 năm, gần nửa thiên niên kỷ. H́nh: Tờ chị của Tống trấn Nguyễn
Hoàng cho Lương Văn Chánh năm 1597 ————- [1] Hội đồng trị sự
Nguyễn Phúc tộc thế phả do Vĩnh Cao, Vĩnh
Dũng, Tôn Thất Hanh, Vĩnh Khánh Tôn Thất Lộc,
Vĩnh Quả, Vĩnh Thần biên soạn, Nxb. Thuận
Hóa, Huế 1955, tr.105. [2] Lê Quư Đôn, Đại
Việt thông sử, bản dịch Ngô Thế
Long, Khoa học Xă hội, Hà Nội, 1978, tr.281. [3] Lê Quư Đôn, Đại
Việt thông sử, bản dịch Ngô Thế
Long, Khoa học Xă hội, Hà Nội, 1978, tr.281. [4] Đại Việt sử kư toàn
thư, bản dịch của Hoàng Văn Lâu, Ngô
Thế Long, tập III, Nxb. Khoa học Xă hội, Hà
Nội, 1993, 124. [5] Nguyễn Phúc Lộc thế
phả, Stđ, tr.108. [6] Lê Quư Đôn, Phủ biên
tạp lục, Đào Duy Anh hiệu đính,
Nxb. Khoa học Xă hội, Hà Nội, 1977, 49. [7] Đại Việt thông sử, sđd,
305 – 306. [8] Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng
Trong, Nxb. Khai Trí, Sài 1970, tr.135. [9] Toàn thư, Sđd, 137. [10] Phủ biên tạp lục, sđd,
50. [11] Phủ biên lạp lục, Sđd,
121. [12] Việt sử xứ Đàng Trong, Sđd,
hàng 149-150. [13] Phủ biên tạp lục, Sđd,
51. [14] Sắc phong này c̣n nguyên vẹn (H.1)
hiện lưu giữ tại Đền Thờ Lương
Văn Chánh, Tuy Ḥa, Phú Yên. [15] Đại Việt sử kư toàn
thư, bản dịch của Hoàng Văn Lâu, Ngô
Thế Long, tập III, Nxb. Khoa học Xă hội, Hà
Nội, 1993, 124. |