Mộc Thạnh mang nhục ở đất Nam Phần 6
|
Những tướng lĩnh
nổi danh đă thất bại tại Đại
Việt (P.6): Mộc Thạnh mang nhục ở đất
Nam
Bài viết này không phải nhằm
mục đích hạ thấp các tướng lĩnh
đă từng có phen chiến bại trên dải đất
Đại Việt, mà chỉ là mượn chút uy danh
của họ để nêu bật lên sự huy hoàng
của các tướng sĩ nước Nam… Sau khi nhà Trần chiến thắng quân Mông
Cổ một cách oanh liệt, nhà Hồ kế vị
đă làm mất nước vào tay nhà Minh. Lần
đầu tiên sau hơn 400 năm độc lập, nước
ta một lần nữa phải trải qua 20 năm
Bắc thuộc vô cùng đen tối và tủi
nhục. Thế nhưng, vật cực tất
phản, “nhật nguyệt hối rồi lại
minh”, sau khoảng thời gian u ám nhất chính là ánh
b́nh minh huy hoàng. Sự quật khởi của
triều đại Hậu Lê của Lê Lợi đă
viết nên những trang sử oai hùng nhất của
dân tộc chúng ta. Phần 6: Mộc Thạnh (1368-1439)
Danh gia vọng tộc gốc Hồi
nổi tiếng của Trung Quốc từ thời Nguyên
đến nay Vân Nam Mộc gia trấn thủ Vân Nam
suốt mấy trăm năm thời Minh là một
trong những danh gia vọng tộc lớn của người
Hán. Họ Mộc Vân Nam vốn gốc người
Hồi, là ḍng họ người Nạp Tây, làm
thổ ti xứ này trải ba triều đại,
với 22 thế hệ, tổng cộng là 470 năm
bắt đầu từ nhà Nguyên. Ḍng họ này
được triều Nguyên phong làm Thổ ti, sau
đó quy thuận nhà Minh, được Minh Thái
Tổ ban cho họ Mộc của người Hán,
trở thành họ chính thức và từ đó họ
cũng học theo văn hóa Hán. Tuy chỉ là Thổ
ti, nhưng uy thế và sự giàu sang của họ
Mộc không kém ǵ các bậc vương công, và
phủ đệ c̣n vượt xa các vương
phủ về độ rộng lớn huy hoàng. Sang đến triều Thanh, họ
Mộc vẫn c̣n trung thành với hậu duệ nhà
Minh nên bị phế bỏ tước vị, Mộc
phủ cũng dần hoang phế. Tuy nhiên, ḍng dơi
Mộc gia vẫn c̣n có uy thế đến tận khi
thành lập Trung Hoa Dân Quốc (1911). Ngày nay, địa danh Mộc Phủ Vân
Nam vẫn c̣n là một trong những điểm đến
du lịch nổi tiếng nhất, nằm trong số
những vương phủ cổ xưa vừa
được trùng tu khá nguyên vẹn. Ngoài ra, nếu các bạn là “fan” hâm
mộ của truyện kiếm hiệp Kim Dung th́
chắc hẳn sẽ biết đến gia tộc
họ Mộc này. Họ cũng góp một vài nhân
vật trong tiểu thuyết Lộc Đỉnh Kư
như tiểu quận chúa Mộc Kiếm B́nh – sau này
thành vợ của Vi Tiểu Bảo, và anh trai cô là
Mộc Kiếm Thanh: “Mao Thập Bát buông tiếng thở dài
đáp: Hễ là người từng trải
giang hồ khi chạm trán với những nhân vật
Mộc phủ Vân Nam tự nhiên phải tỏ ḷng
cung kính, đứng né bên đường nhường
lối cho họ đi trước. Giả sử
vừa rồi nếu họ có ư ra tay thật sự
th́ dù ta có muốn ngăn cản cũng không đủ
bản lănh”. (Trích Lộc Đỉnh Kư, chương
8)
Địa
danh Mộc Phủ Vân Nam được ví như
Tử Cấm thành của phương nam. (Ảnh: flickr.com) Con trai của Khai quốc công thần
Kiềm Ninh vương Mộc Anh Mộc Thạnh là con trai thứ hai
của Kiềm Ninh vương Mộc Anh (1345-1392) – công
thần khai quốc nhà Minh, nguyên gốc là người
huyện Định Viễn, tỉnh An Huy. Nhờ công lao chiến đấu và ḷng
trung thành, Mộc Anh được Minh Thái Tổ
nhận làm con nuôi và ban cho họ Mộc là một
họ của người Hán. Ông cũng là một
trong số hiếm hoi các đại thần thoát
khỏi cuộc thanh trừng thời Hồng Vũ. Năm
1381, Mộc Anh tham gia cuộc chinh phạt Vân Nam đánh
đuổi tàn quân Nguyên và các lực lượng người
Hồi theo nhà Nguyên c̣n cát cứ ở đây. Sau khi
chinh phạt thắng lợi, Mộc Anh được
triều đ́nh nhà Minh cho cai trị Vân Nam. Con cháu
Mộc Anh cũng được nối nghiệp này. Mộc Thạnh tính cách giống cha, thích
đọc sách và thận trọng trong lời ăn
tiếng nói nên rất được Minh Thái Tổ
quư mến. Mộc Thạnh tham gia vào quân đội,
thăng dần lên Hậu quân đô đốc
phủ thiêm sự, rồi Tả đô đốc, tước
Tây B́nh hầu (năm 1399), trấn giữ Vân Nam. Đánh bại nhà Hồ, phong tước
Kiềm quốc công Cũng giống như Liễu Thăng,
An Nam có lẽ là nơi “đất lành” để
Mộc Thạnh lập đại công và thăng quan
phát tài. Năm 1400, Hồ Quư Ly đoạt ngôi
nhà Trần rồi nhường ngôi cho con là Hồ Hán
Thương, dâng biểu báo nhà Minh là nhà Trần không
c̣n người nối dơi tông đường. Năm 1403, Bùi Bá Kỳ – t́ tướng
của Trần Khát Chân – chạy sang tố cáo cha con
Quư Ly giết vua, cướp nước, lại có
Trần Thiêm B́nh tự nhận là con cháu nhà Trần. Tháng 4 năm 1406, Minh Thành Tổ sai
sứ giả hộ tống Trần Thiêm B́nh về nước
để làm vua, bị Hồ Hán Thương sai người
đón đường giết đi. Thành Tổ
liền lấy ngay cớ ấy, sai Mộc Thạnh cùng
Chu Năng đem quân tấn công nước Đại
Ngu nhà Hồ. Tháng 9 năm 1406, Chinh Di phó tướng
quân Tây B́nh hầu Mộc Thạnh đem quân từ
đường Mông Tự (tên huyện, thuộc
phủ Lâm An, nay là châu tự trị Hồng Hà
thuộc tỉnh Vân Nam), Lâm An (tiếp giáp với
ải Lê Hoa châu Quy Hóa nhà Hồ, nay là Lào Cai),
tiến quân đánh quan ải Phú Lệnh (thuộc
tỉnh Tuyên Quang), kéo thẳng đến sông Thao. C̣n
Chu Năng từ Quảng Tây tiến sang, nhưng
ốm chết dọc đường nên Trương
Phụ thay thế. Hai cánh quân này hợp nhau tại sông
Bạch Hạc. Tháng 12 năm 1406, quân Minh do Trương
Phụ và Mộc Thạnh chỉ huy đánh phá
được thành Đa Bang, nhân đà thắng
thế xuôi ḍng chiếm lấy Đông Đô. Tháng 2 năm 1407, Mộc Thạnh đánh
cho quân nhà Hồ thua to ở sông Mộc Hoàn. Quân nhà
Hồ rút lui, giữ cửa biển Đại An. Tháng
6 cùng năm, quân Minh bắt được cha con
Hồ Quư Ly. Mộc Thạnh cùng Trương Phụ
rút quân về nước; đến năm 1408
được phong là Kiềm quốc công, bổng
lộc 3.000 thạch.
Sau khi
đánh bại nhà Hồ, Mộc Thạnh được
phong là Kiềm quốc công. (Ảnh minh họa: soha.vn) Đại bại trận Bô Cô Vừa mới thăng chức Kiềm
quốc công th́ ngay trong năm đó, Mộc Thạnh
phải nếm quả đắng trên dải đất
An Nam với chiến bại triệt để đầu
tiên trong binh nghiệp. Đó là trận đại
chiến Bô Cô với quân nhà Hậu Trần –
Giản Định Đế và cha con Đặng
Tất, Đặng Dung cùng tướng Nguyễn
Cảnh Chân. Bô Cô hay Bồ Cô là tên một bến
đ̣ thuộc xă Bồ Cô, nay thuộc huyện Ư Yên,
tỉnh Nam Định. Đại Việt sử kư
toàn thư chép về trận đánh này như sau: “Tháng 12, ngày 14, Quốc công Đặng
Tất cả phá quân Minh tại Bồ Cô hăn. Bấy
giờ nhà Minh sai Tổng binh Mộc Thạnh mang tước
Kiềm quốc công, đeo ấn Chinh Di tướng
quân, đem 5 vạn quân từ Vân Nam đến
Bồ Cô, vừa khi vua Giản Định cũng
từ Nghệ An tới, quân dung nghiêm chỉnh,
gặp lúc nước triều lên gấp, gió thổi
mạnh, sai các quân đóng cọc giữ và lên hai bên
bờ đắp lũy. Thạnh cũng chia quân
thủy, quân bộ cùng cầm cự. Vua cầm dùi
đánh trống, hạ lệnh các quân thừa cơ
xông đánh từ giờ Tỵ [khoảng 11 giờ]
đến giờ Thân [16 giờ], quân Minh thua chạy,
chém được Binh bộ thượng thư Lưu
Tuấn, Đô ty Lữ Nghị, cùng quân mới, quân
cũ đến hơn 10 vạn tên. Chỉ một ḿnh
Mộc Thạnh chạy thoát trốn về thành
Cổ Lộng”. Sử liệu từ Minh thực
lục cũng xác nhận chiến thắng này, c̣n
cho biết rơ hơn về lư lịch các tướng
lănh, quan lại cao cấp của nhà Minh tử
trận, bản dịch như sau: “Ngày 24 tháng 12, năm Vĩnh Lạc
thứ 6 [9/1/1409] Ngày hôm nay quan Tổng binh Giao Chỉ
Kiềm quốc công Mộc Thạnh giao tranh với
đầu đảng giặc Giao Chỉ, Giản
Định, tại sông Sinh Quyết bị thua. Đô
đốc thiêm sự Lữ Nghị, Binh bộ thượng
thư Lưu Tuấn, Tham chính Giao Chỉ Bố chánh
ty Lưu Dục đều chết. Lữ Nghị người đất
Hạng Thành, Hà Nam; khởi đầu giữ chức
Bách hộ vệ Tế Dương. Thời Tĩnh
Nan, Nghị theo chinh phạt mấy lần lập
kỳ công, được thăng đến chức
Đô chỉ huy đồng tri. Năm Vĩnh Lạc
thứ ba thăng Đô đốc thiêm sự, cùng
với Hoàng Trung luyện binh tại Quảng Tây;
lại cùng mang binh đem cháu của An Nam vương
là Trần Thiêm B́nh về nước. V́ làm trái
chiếu chỉ, nên Nghị không tránh được
thất bại ở Kê Lăng; rồi được
tha tội cho giữ nguyên chức ṭng chinh, mệnh
sung Ưng Dương tướng quân. Giao Chỉ b́nh,
có công được giữ chức Đô ty Giao
Chỉ. Nghị tính thâm trầm, dũng lược,
đánh trận thâm nhập, bị hăm chết
trận. Lưu Tuấn người đất
Giang Lăng, Hồ Quảng; đậu tiến sĩ năm
Ất Sửu. Thời Hồng Vũ, giữ chức
Chủ sự bộ Binh, rồi được thăng
lên Tả thị lang bộ này. Thời Kiến Văn
giữ chức Thị trung. Khi Thiên tử [Thành
Tổ] tức vị, được thăng hàm Thượng
thư. Tuấn cẩn thận, cần mẫn trong công
việc, có mưu trí, giỏi ứng biến, nên
được tín nhiệm. Trước đây quan
Tổng binh chinh phạt Giao Chỉ, mệnh Tuấn
tham mưu quân vụ, góp nhiều công ích, nên sau khi b́nh
Giao Chỉ được ban thưởng. Rồi
lại được cử sang Giao Chỉ để
tham mưu quân vụ cho Thạnh. Thạnh bại,
Tuấn bị vây, bèn thắt cổ tự tử. Lưu Dục người Vũ Thành, Sơn
Đông; xuất thân từ Lại khoa cấp sự
trung, thăng Thông chính sứ ty tả thông chính,
rồi đến chức Tả tham chính ty bố chánh
Hà Nam. Sau được đổi đến Giao
Chỉ giữ chức Hữu tham chính. Dục tính hà
khắc, ít nói, thiếu ân, tuy nhiên làm việc
giỏi, đến nơi nào thuộc lại và dân cũng
đều sợ, đến nay cùng chết với
Tuấn”.
Trận Bô Cô. (Ảnh minh họa:
wukong.com) Bắt sống Giản Định Đế Thế nhưng, niềm vui đại
thắng của quân ta kéo dài không lâu. Sau trận Bô Cô,
nội bộ quân hậu Trần bị chia rẽ v́
chủ trương của Đặng Tất và
Nguyễn Cảnh Chân khác với Giản Định
Đế. Nghi ngờ 2 tướng của ḿnh
muốn tạo phản, mấy tháng sau Giản Định
Đế đă ra lệnh giết họ. Con của 2
tướng trên là Đặng Dung và Nguyễn
Cảnh Dị tức giận bỏ đi pḥ Trần
Quư Khoách lên ngôi vua, gọi là Trùng Quang Đế. Tháng 7 năm 1409, do quân Minh thua, Anh
quốc công Trương Phụ lại được
cử đem 47.000 quân từ Chiết Giang, Giang Tây, Phúc
Kiến, Hồ Quảng, Quảng Đông, Quảng Tây
sang. Vua Giản Định tuy được
vua mới (Trần Quư Khoách) tôn làm Thái thượng
hoàng, nhưng không có thực quyền, rồi
chẳng bao lâu bị đạo quân của Trương
Phụ tăng viện cho Mộc Thạnh truy kích và
bắt sống. Đánh bại Trùng Quang Đế Trùng Quang Đế lên ngôi với
sự trợ giúp của 2 tướng tài Nguyễn
Cảnh Dị và Đặng Dung đă quyết
chiến đến cùng với quân Minh. Dù cho sức
yếu quân ít nhưng sự quả cảm và tài năng
của tướng sĩ hậu Trần cũng
khiến quân Minh đánh dẹp rất vất vả và
thua một số trận. Tháng 4 âm lịch năm 1413, Trương
Phụ lại đánh vào Nghệ An; Trùng Quang Đế
phải rút về Hóa Châu, sai Nguyễn Biểu làm
sứ đi cầu phong. Nguyễn Biểu đến
Nghệ An th́ bị Trương Phụ bắt
giữ, Nguyễn Biểu tức giận mắng Trương
Phụ và bị Phụ giết chết. Bước ngoặt chiến tranh xảy
ra khi Thái phó Đại Việt là Phan Quư Hữu đầu
hàng quân Minh, được một tuần th́
chết. Trương Phụ cử con Quư Hữu là
Phan Liêu làm tri phủ Nghệ An, và ban thưởng
hậu hĩnh cho gia đ́nh Liêu. Liêu bèn kể
hết cho Phụ về thực lực các tướng,
quân số của Trùng Quang Đế và địa
thế Hóa Châu. Trương Phụ, Mộc Thạnh
liền đem quân thủy bộ vào Hóa Châu, mất
21 ngày th́ tới. Tháng 9 âm lịch năm 1413, Nguyễn Súy
dàn trận tại kênh Thái Đà, đánh nhau ác
liệt với Trương Phụ. Nửa đêm,
Đặng Dung dùng voi đánh úp dinh của Phụ,
định nhảy lên thuyền Phụ bắt
sống mà không nhận được mặt, Phụ
nhảy lên thuyền nhỏ trốn mất, quân Minh
tan vỡ quá nửa, thuyền chiến vũ khí
bị đốt phá gần hết. Thế nhưng, Nguyễn Súy không
chịu hợp sức cùng Đặng Dung chiến
đấu, mà quân th́ c̣n rất ít. Trương
Phụ thấy vậy bèn xua tàn quân phản công, thay
đổi cục diện. Quân Đặng Dung tan
chạy, ẩn nấp trong hang núi, không c̣n sức
đánh lớn. Tháng 11 âm lịch năm 1413, Đặng
Dung và Nguyễn Cảnh Dị định chạy sang
Xiêm La th́ bị quân Minh bắt. Khi trông thấy Phụ, Nguyễn
Cảnh Dị luôn mồm quát mắng: “Chính ta
muốn giết mày, bây giờ lại bị mày
bắt!”. Trương Phụ tức giận, giết
Nguyễn Cảnh Dị. Trương Phụ chiếm
được Tân B́nh, Thuận Hóa, bèn đặt
quan cai trị, điều tra dân số, làm sổ dân
đinh và tâu xin vua Minh tăng cường quân
trấn giữ. Ngày 10 tháng 3 âm lịch năm 1414, Trùng
Quang Đế chạy sang nước Lăo Qua, Nguyễn
Súy chạy sang châu Minh Linh, sau đều bị người
của Phụ bắt. Người của Thuận Hóa
cũng ra hàng, từ đó vương triều
hậu Trần chấm dứt. Tháng 4 âm lịch năm 1414, Trương
Phụ thu quân về Đông Quan, sai người
giải vua Trùng Quang, Đặng Dung và Nguyễn Súy
về Trung Quốc. Giữa đường, Trùng Quang
Đế nhảy xuống nước tự vẫn.
Hai tể tướng Đặng Dung, Nguyễn Súy sau
đó cũng đều tuẫn tiết.
Nguyễn
Súy không chịu hợp sức cùng Đặng Dung
chiến đấu nên bị Trương Phụ đánh
tan. (Ảnh minh họa: togetter.com ) “Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân
Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật! Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân
Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân” Vương Thông bị quân của Lê
Lợi vây khốn ở Đông Quan liền cấp báo
lên triều đ́nh. Nhà Minh cử Mộc Thạnh cùng
Liễu Thăng đem quân sang cứu. Tháng 3 năm 1427, Chinh Nam tướng quân
thái phó Kiềm quốc công Mộc Thạnh cùng tham tướng
Hưng An bá Từ Hanh và Tân Ninh bá Đàm Trung làm
tả hữu phó tướng quân, theo đường
Vân Nam tiến đánh cửa ải Lê Hoa. Thật
đúng là: “Thằng nhăi con Tuyên Đức động
binh không ngừng Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng
đem dầu chữa cháy Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng
đem binh từ Khâu Ôn kéo lại Năm ấy tháng mười, Mộc
Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến
sang”. (“B́nh Ngô Đại Cáo” – Nguyễn
Trăi) Là một lăo tướng dày dặn kinh
nghiệm chiến trường tại Đại
Việt và cũng từng đại bại, Mộc
Thạnh rất cẩn thận chứ không tham công kiêu
ngạo như Liễu Thăng. Ông ta dẫn quân vào nước
ta nhưng đánh chắc, tiến chắc chứ không
muốn tiến nhanh, ư cũng muốn coi kết
quả của cánh quân Liễu Thăng rồi mới
quyết định bước tiếp theo. Thế nhưng, điều Mộc
Thạnh không bao giờ ngờ đến là đối
thủ của ông sau 10 năm không c̣n là một nhóm
quân ô hợp mất nước mà đă là một
đạo quân chính quy tinh nhuệ, với những tướng
lĩnh không những tinh thông binh pháp mà c̣n lăo
luyện chiến trường và cực kỳ am
hiểu t́nh h́nh quân Minh. Họ biết tính cách của Mộc
Thạnh như thế nên ưu tiên xử lư Liễu
Thăng, c̣n mặt trận ải Lê Hoa th́ chỉ
cầm cự là chủ yếu. Và cứ như
thế, Mộc Thạnh dần dần rơi sâu vào cái
bẫy rập của quân Lam Sơn mà không hay
biết, c̣n tự cho rằng cách đánh của ḿnh
là đúng. Kết quả đến liền ngay sau
đó: Liễu Thăng chết tại trận; cánh quân
Quảng Tây bị đánh tan tác với 1 loạt
chiến dịch liên tiếp. Đúng thật là: “Lạng Giang, Lạng Sơn, thây
chất đầy đường Xương Giang, B́nh Than, máu trôi đỏ
nước Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải
đổi, Thảm đạm thay! Ánh nhật
nguyệt phải mờ”. (“B́nh Ngô Đại Cáo” – Nguyễn
Trăi)
Những
trận đánh lưu danh thiên cổ của nghĩa
quân được Nguyễn Trăi thể hiện trong
“B́nh Ngô Đại Cáo”. (Ảnh: vanmau.com) B́nh Định Vương Lê Lợi sai
lấy 1 chỉ huy và 3 thiên hộ của quân Minh mà
ta bắt được, cùng những sắc thư,
phù ấn của Liễu Thăng đưa đến
chỗ quân Mộc Thạnh. Mộc Thạnh trông thấy rất
hoảng sợ; trong phút chốc, quân tan vỡ tháo
chạy. Quả thật không c̣n chút thể thống nào
của vị Đại tướng Quốc công
từng bắt sống 2 vua Đại Việt năm xưa.
Ông ta và đoàn quân của ḿnh đă phải trả
giá hết cho những ǵ từng gây ra trên đất
nước này. Ban đầu, 2 tướng trấn
giữ ải Lê Hoa là Trịnh Khả và Phạm Văn
Xảo được lệnh cầm cự với
Mộc Thạnh chứ chưa giao chiến lớn. Nhưng
khi thấy quân Vân Nam muốn rút lui, 2 tướng
đă nhân cơ hội tung quân tập kích mà lập
nên chiến công lừng lẫy tại Lănh Câu và
Đan Xá: “Suối Lănh Câu máu chảy trôi chày, nước
sông nghẹn ngào tiếng khóc Thành Đan Xá thây chất thành núi, nhơ
để ngàn năm”. (“B́nh Ngô Đại Cáo” – Nguyễn
Trăi) Khâm định Việt sử thông giám
cương mục có chép: “Trịnh Khả nhân quân sĩ đà
đang sắc bén, tung quân ra đánh phá; chém hơn
vạn thủ cấp, bắt được hơn
1.000 quân và hơn 1.000 ngựa. Mộc Thạnh chỉ
kịp một người một ngựa chạy thoát”. An Nam truyện trong Minh sử cũng
chép: “Mộc Thạnh kéo quân đến
Thủy Vĩ, làm thuyền bè, sửa soạn để
chực tiến quân. Được tin Thông đă
nghị ḥa, Thạnh cũng rút lui. Địch
thừa thắng đổ ra đánh. Thạnh thua
to”. Theo Minh thực lục, ngày 14 tháng
12 năm 1427, Mộc Thạnh cùng thuộc hạ
chạy tới Cao Trại, Thủy Vĩ th́ bị quân
Lam Sơn phục kích cả trên sông lẫn trên
bờ, phải vất vả làm lại thuyền
mới đi tiếp được. Năm 1428, sau khi quân Minh rút về nước,
Vương Thông cùng Trần Trí, Mă Anh, Phương Chính,
Sơn Thọ, Mă Kỳ đều bị giam vào
ngục, tịch thu gia sản nhưng Mộc Thạnh,
Từ Hanh, Đàm Trung th́ không bị Minh Tuyên Tông
hỏi tội, mặc dù bọn Thạnh cũng
bị triều thần Bắc Kinh hặc tội. Như vậy, thất bại của
vị Đại tướng Mộc gia uy danh lừng
lẫy Trung Nguyên đă dệt thêm một trang sử
vàng cho nước Việt. Quả đúng là: “Một cỗ nhung y chiến thắng, Nên công oanh liệt ngàn năm”. Tĩnh Thuỷ Tài liệu tham khảo: Đại Việt sử kư toàn thư.
Nhà xuất bản khoa học xă hội Hà Nội,
1993, bản điện tử, trang 351. Đại Việt thông sử. Nhà
xuất bản văn hóa thông tin, 1976, trang 79, 80, 240. Khâm định Việt sử thông giám
cương mục: Chính biên, quyển XII, XIII, XIV. Lam Sơn thực lục. Nhà xuất
bản Tân Việt, 1956, cuốn 2. Minh sử: Liệt truyện, quyển 42,
145, 154, 321. Việt Nam sử lược. Bản in
của Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng ḥa năm
1971, tập 1, trang 232 và 233. Việt sử tiêu án. Nhà xuất
bản Văn Sử 1991, Phần Ngoại thuộc nhà
Minh, bản điện tử. |