Chúa Tiên
với cuộc Nam tiến
Đỗ Kim Trường |
Chúa Nguyễn Hoàng (1525 - 1613) Mùa đông năm
Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được
cử vào trấn thủ Thuận Hóa, sự kiện này
tạo tiền đề cho công cuộc mở đất
phương nam thời chúa Nguyễn, từ thế
kỷ XVI đến năm 1757 th́ hoàn thành, và qua
đó đặt nền tảng cho sự nghiệp
thống nhất đất nước. Vấn đề
Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa đă được
đề cập trong nhiều hội thảo khoa
học. [1]
Trong đó một số nội dung được quan
tâm nhiều: nguyên nhân Nguyễn Hoàng
vào nam; về mâu thuẫn với Trịnh Kiểm;
tầm nh́n của ông đối với vùng đất
mới. 1.
Nguyên nhân Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa
Toàn thư
chép nguyên nhân Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa như
sau: "Mậu Ngọ[Chính Trị] năm
thứ 1 [1558], ... Tháng 10, Thái
sư Trịnh Kiểm vào chầu, dâng biểu tâu xin
sai con thứ của Chiêu Huân Tĩnh công là Đoan
quận công Nguyễn Hoàng đem quân vào trấn
thủ xứ Thuận hóa để pḥng giặc phía
đông cùng với Trấn quận công (không rơ tên)
ở Quảng Nam cứu viện cho nhau. Mọi
việc của xứ này, không cứ lớn hay
nhỏ, và các ngạch thuế đều giao cả
cho, hàng năm đến kỳ hạn th́ thu
nộp." [2]
Một
số vấn đề cần làm sáng tỏ: Tại
sao nơi trấn nhậm là xứ Thuận Hóa?
Giặc phía đông là giặc nào? Ở thế
kỷ XVI-XVII, nước ta bắc giáp Minh; tây giáp Lan
Xang; đông giáp Biển Đông; nam giáp Champa. Lúc
bấy giờ vùng đất phía nam tiếp giáp Champa
là Thuận Quảng, nơi đây "cho đến
thế kỉ XVI, tŕnh độ kinh tế vùng
Thuận Quảng c̣n thấp kém, lạc hậu,
đương thời coi là vùng "Ô
châu ác địa", là đất "biên
viễn xa xôi", là nơi đày ải tội nhân
và chiến tù. Phú thuế nhà Lê, nhà Mạc thu
được ở vùng này chỉ là các loại lâm
thổ sản như ngà voi, sừng tê, hương
liệu, ... Kinh tế Thuận
Quảng thấp kém, nhưng đất đai
rộng, khả năng khai thác c̣n nhiều." [3]
Việc
tổ chức chính quyền của Champa trên vùng đất
tiếp giáp Đại Việt c̣n rất lỏng
lẻo, quá tŕnh xác lập chủ quyền lại không
liên tục, phải thường xuyên thay đổi
đường biên mà nguyên nhân do cuộc hôn nhân
với nhà Trần trước đó [4]
và các cuộc chiến tranh xâm lấn Đại
Việt của một số vua Champa [5].
Những nguyên nhân kể trên khiến cho việc
quản trị vùng đất này của Champa hầu
như không chặt chẽ và không thường xuyên. Mặt
khác, tuy vua Lê "đă lấy được đất
Thuận Hóa, nhưng nhiều người ở đó
vẫn theo họ Mạc, hoặc vượt biển
đi theo họ Mạc, hoặc đưa quân Mạc
đến phá phía sau của quân Lê-Trịnh" [6],
đó chính là "giặc phía đông" như
sử liệu đă chép. Tuy
Thuận Hóa khi ấy là "ô châu ác địa"
nhưng đất đai rộng, khả năng khai thác
c̣n nhiều. Các hướng bắc, tây và đông không
khả thi cho việc di dân khai mở đất đai.
Lại nữa về mặt pháp lư, chủ quyền
của Champa không được khẳng định
thường xuyên nên quân Mạc và dân theo họ
Mạc chiếm đóng, rồi mở các cuộc
tấn công từ sau lưng quân Lê-Trịnh. Nơi
đây cần có người trấn giữ vừa
đảm bảo nhiệm vụ quốc pḥng vừa
công tác an dân. Qua biểu tấu
của Trịnh Kiểm và yêu cầu thực tế
lịch sử lúc bấy giờ đă đưa đến
việc Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa.
2.
Về mâu thuẫn với Trịnh Kiểm
Mâu
thuẫn giữa hai ḍng họ Trịnh - Nguyễn mà
đại diện trước tiên là Trịnh
Kiểm - Nguyễn Hoàng. Mâu thuẫn này bắt
đầu xuất hiện từ sau khi Nguyễn Kim
bị đầu độc và quá tŕnh này
(tức mâu thuẫn Trịnh - Nguyễn) có phát sinh và
chuyển biến theo từng giai đoạn [7].
Khảo sát các thư tịch và nghiên cứu gần
đây để xác tín vấn đề. Thực
lục cho biết năm 1545,
sau khi Nguyễn Kim mất, binh quyền trong triều
đ́nh nhà Lê đều do một tay Trịnh Kiểm
nắm giữ. Vua Lê Trang Tông chỉ là hư
vị: "Đến khoảng năm Thuận B́nh
đời Lê Trung Tông, do quân công được
tiến phong Đoan quận công. Bấy giờ Hữu
tướng triều Lê là Trịnh Kiểm (bấy
giờ xưng là Lượng quốc công) cầm
giữ binh quyền, chuyên chế mọi việc. Tả
tướng là Lăng quận công Uông (con trưởng
Triệu Tổ) bị Kiểm hăm hại. Kiểm
lại thấy chúa công danh ngày càng cao nên rất ghét.
Chúa thấy thế, trong ḷng áy náy không yên, cùng bàn mưu
với Nguyễn Ư Dĩ rồi cáo bệnh,
cốt giữ ḿnh kín đáo để họ
Trịnh hết ngờ." [8]Để
thoát khỏi âm mưu của anh rể (Trịnh
Kiểm), Nguyễn Hoàng đă nhờ chị là
Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin cho vào
trấn thủ Thuận Hoá. Liệt
truyện chép về Hoàng
tử trưởng Nguyễn Uông: "Năm Ất
Tỵ 1545, Lê Nguyên Ḥa năm 13 tập ấm, phong làm:
Lăng Xuyên Hầu, sau tiến phong Tả tướng quân,
rồi bị Trịnh Kiểm làm
hại, chết (không nhớ năm)." [9]
Có thật Trịnh Kiểm
làm hại Nguyễn Uông không? Thực lục
chép: "Năm Nhâm Tư (1672), ... Trịnh sai người
đến ngoài lũy Trấn Ninh mời tướng
ta ra ngoài lũy nói chuyện. Nguyên soái Hiệp sai Cai
hợp Tú Minh ra gặp. Sứ Trịnh hỏi rằng
năm trước vua Lê có sắc mà cự tuyệt
không nhận nên nay đến về việc ấy. Tú
Minh trả lời: "Ông nói nhầm rồi! Trước
tiên vương ta giúp nhà vua, thiên hạ ai cũng
biết. Nay họ Trịnh chuyên quyền, hiệu
lệnh tự ḿnh đặt ra, những việc
xảy ra từ đời Chính Trị và đời
Hoằng Định đă không nỡ nói đến.
Năm trước cự sứ giả là cự
họ Trịnh chứ không phải cự nhà Lê. Nay
đă đề binh đến đây, muốn đánh
th́ đánh, c̣n kéo dài ngày tháng làm chi cho
khổ?". Sứ Trịnh không biện bạch
được, từ biệt mà đi." [10]
Đoạn dẫn trên có mấy điểm cần làm
rơ: Một là, "năm trước vua Lê có sắc
mà cự tuyệt không nhận nên nay đến
về việc ấy". Việc này chỉ mùa đông
tháng 10 năm Kỷ Tỵ (1629), chúa Trịnh Tráng
theo lời bàn của bề tôi là Nguyễn Danh
Thế mượn cớ sai sứ vào tiến phong cho Nguyễn
Phúc Nguyên tước quốc công đồng
thời khiến đem quân ra đánh họ Mạc
ở Cao Bằng, qua đó có cớ đánh Thuận Hóa[11].
Mưu này của họ Trịnh đă bị Đào
Duy Từ nhận biết và bày kế cho chúa Săi
đúc mâm vàng hai đáy, dưới để đạo
sắc và tờ thiếp viết "Mâu nhi vô
dịch, mịch phi kiến tích. Ái lạc tâm trường,
lực lai tương địch" ẩn ngữ [dư
bất thụ sắc] ta chẳng nhận sắc [12].
Hai là, "những việc xảy ra từ đời
Chính Trị và đời Hoằng Định đă
không nỡ nói đến". Chú thích cho biết
"việc xảy ra từ đời Chính Trị
(Lê Anh Tông), Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông,
Nguyễn Hoàng phải xin vào trấn Thuận Hóa"
và "đời Hoằng Định", năm
thứ 20, Trịnh Tùng giết vua Kính Tông ở
nội điện." [13]
V́ vậy, khi Cai hợp Tú dẫn những chuyện cũ
đối đáp với sứ Trịnh, do không
biện bạch được, đuối lư nên
sứ Trịnh đành "từ biệt mà đi".
Qua đó chứng tỏ Nguyễn Uông
bị Trịnh Kiểm giết là sự thật.
Tạp chí Xưa & Nay số 503 tháng 01-2019,
trong bài viết của ḿnh, tác giả Vơ Vinh Quang cho
biết: Ngày Đinh Tỵ (ngày 27) tháng Tân Măo (tháng
7) năm Quư Mùi (1943), vua Bảo Đại đă ban
cấp đạo sách phong trên lụa truy phong cho
Nguyễn Uông (anh chúa Tiên Nguyễn Hoàng) tước
vị Lăng Xuyên quận vương, trong đó có
đoạn: "Vô đoan Trịnh thị kiến sai
tảo tuế ngẫu tao uổng khuất",
dịch nghĩa "Họ Trịnh vô cớ nghi
ngờ, tuổi trẻ bổng lâm oan uổng."
Đáng chú ư từ "Vô đoan" nghĩa là không
có nguyên nhân ǵ, không có manh mối, không duyên cớ[14].
Câu "bổng lâm oan uổng" chỉ việc
Nguyễn Uông bị họ Trịnh giết và chủ
mưu không ai khác chính là Trịnh Kiểm. Gần
đây, George Dutton trong nghiên cứu Cuộc
nổi dậy của nhà Tây Sơn, khi phân tích t́nh
h́nh Đại Việt ở thế kỉ XVIII, tác
giả đề cập ngoài cuộc chiến
giằng co và dai dẳng với nhà Mạc, trong
nội bộ chính quyền Nam triều c̣n có tranh
đua giữa hai ḍng họ Nguyễn - Trịnh. Sau khi
Nguyễn Kim bị mưu sát, họ Trịnh dần
thắng thế, địa vị được
củng cố và mâu thuẫn nổ ra:
"Mặc dù lúc đầu hai người con trai
của Nguyễn Kim cũng theo cha đi đánh
trận để pḥ giúp nhà Lê, song địa vị
của họ so với họ Trịnh đă suy
yếu. Nôn nóng tiêu diệt đối thủ của
ḿnh, Trịnh Kiểm đă bố trí giết chết
người con trai lớn của Nguyễn Kim. Qua hành
vi này của người anh rể, người con trai
nhỏ hơn là Nguyễn Hoàng thấy trước
số phận của ḿnh nếu không t́m mưu chước
tự bảo vệ. Thông qua người chị
ruột là vợ Trịnh Kiểm, ông xin được
cử làm Trấn thủ ở các lănh thổ xa
về phía nam là Thuận Hóa và Quảng Nam. Sự lưu
đày phương xa của đối thủ chính
trị làm vừa ḷng Trịnh Kiểm, ông ta chấp
thuận lời đề nghị của Nguyễn Hoàng."[15]
Đoạn dẫn trên thể hiện quan điểm
của G. Dutton khi gọi Nguyễn Hoàng là "đối
thủ chính trị" của Trịnh Kiểm, mà
đă là đối thủ (nhất là đối
thủ chính trị) th́ không thể cùng tồn
tại. Từ tất cả các cứ liệu trên
chứng tỏ mâu thuẫn Trịnh Kiểm với
Nguyễn Hoàng là sự thật. 3.
Tầm nh́n của Nguyễn Hoàng đối với vùng
đất mới Sau khi vào
Thuận Hóa, công việc đầu tiên của
Nguyễn Hoàng là t́m đất dựng trụ sở
trấn đóng. Từ năm đầu vào nam (1558)
đến khi qua đời (1613), chúa Tiên ba lần
lập dinh trấn. Cụ thể năm 1558 lập dinh
Ái Tử, năm 1570 lập dinh Trà Bát và năm 1600
lập dinh Cát. Tại sao trong 55 năm dựng
nghiệp Nguyễn Hoàng lại thay đổi dinh
trấn đến ba lần? Đất Thuận Hóa lúc
đó có ba trọng điểm là thành Hóa Châu, thành
Thuận Châu và chợ Thuận. Tuy nhiên, Nguyễn Hoàng
không chọn những trung tâm chính trị - kinh tế
của các triều trước để đặt
trị sở, ông quyết định chọn Ái
Tử. V́ sao? Đây là "vùng đất nằm bên
bờ sông Thạch Hăn, nối liền với Cửa
Việt, có những băi cát trống trải, thuận
lợi cho việc pḥng thủ theo quan điểm quân
sự cổ điển thời bấy giờ có
lẽ chỉ là một phần lư do. Phần quan
trọng hơn, có thể Nguyễn Hoàng muốn
chọn một vùng đất mới, vùng đất
chưa chịu ảnh hưởng sâu đậm
của triều đại trước để
dễ thực hiện sách lược thu phục nhân
tâm của riêng ḿnh." [16]
Sau 12 năm ở Ái Tử, năm 1570, chúa Tiên
dời trị sở đến Trà Bát. Quyết
định này do sau lần ra bắc năm 1599,
nội bộ họ Trịnh xảy ra tranh chấp khi
Trịnh Kiểm mất, hai con là Trịnh
Cối và Trịnh Tùng tranh giành quyền lực,
đánh nhau. Quân Mạc nhân cơ hội ấy vào
đánh Thanh Hóa. Vua Lê phong Trịnh Tùng làm Tả tướng
khiến Trịnh Cối bất măn (trước đó
Cối được vua Lê giao đốc lĩnh các
dinh thủy bộ thay cha-Trịnh Kiểm) nên về hàng
nhà Mạc. C̣n Nguyễn Hoàng lại
được giao thêm trấn thủ Quảng Nam.
Ông liền dời trị sở từ Ái Tử sang Trà
Bát. "Đặt dinh trấn mới ở Trà Bát
thực chất là mở rộng quy mô của vùng
đất khởi nghiệp ban đầu ở Ái
Tử, tạo thế liên hoàn Ái Tử - Trà Bát để
có điều kiện phát triển quy mô của dinh
trấn." [17]Sau
30 năm tạo lập ở dinh Trà Bát, đến năm
1600 chúa Tiên lại dời sang dinh Cát. Trị
sở mới (tức dinh Cát) ở về phía đông
của dinh Ái Tử. Đây là lần lập cơ
sở trị nhậm thứ ba kể từ khi vào nam,
và "dù ba lần lập dinh
trấn, nhưng Nguyễn Hoàng vẫn bám giữ
trục Ái Tử làm căn cứ địa, giữ
vững vùng đất dựng nghiệp mà ḿnh đă
chọn từ buổi đầu tiên, song với
một tâm thế khác hơn trước, tâm thế
muốn chuyển từ một vị Tổng trấn
tướng quân trở thành một "chân chúa",
độc lập với uy quyền của Trịnh Tùng
vừa mới trở thành chúa Trịnh ở phương
Bắc." [18]Như
vậy, ở lần thứ nhất lập dinh Ái
Tử chúa Tiên muốn thu phục nhân tâm và loại
ảnh hưởng của các triều đại trước;
lần thứ hai khi dời sang Trà Bát để
được thế liên hoàn Ái Tử - Trà Bát và thêm
đất Quảng Nam nhằm chuẩn bị cho
lần thứ ba định dinh Cát với tâm thế
của một vị "chân chúa", qua đó
tạo sự đối lập với trung tâm
quyền lực Đàng Ngoài của chúa Trịnh đồng
thời đặt cơ sở cho công cuộc mở
đất phương nam sau này. Cùng ba
lần lập dinh, tầm nh́n của Nguyễn Hoàng
đối với vùng đất mới c̣n được
thể hiện ở việc cử con trai Nguyễn
Phúc Nguyên làm Trấn thủ Quảng Nam (năm
1602); năm 1604, lập phủ Điện Bàn, đổi
Tiên B́nh thành phủ Quảng B́nh, đổi
phủ Tư Ngăi thành Quảng Ngăi; năm 1611,
lập phủ Phú Yên. Và đặc biệt là di ngôn
chính trị của chúa Tiên trước khi mất cho
con thứ 6 (tức Nguyễn Phúc Nguyên): "Đất
Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang [Hoành Sơn] và
sông Gianh [Linh Giang] hiểm trở, phía nam ở núi
Hải Vân và núi Đá Bia [Thạch Bi sơn] vững
bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối,
thật là đất dụng vơ của người
anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để
chống chọi với họ Trịnh th́ đủ xây
dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng
thế lực không địch được, th́
cố giữ vững đất đai để
chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua
lời dặn của ta." [19]
Hơn
460 năm trước chúa Tiên với cuộc "Nam
tiến" đă dựng nghiệp, mở mang
bờ cơi, phát triển kinh tế cho đất nước,
tạo nên sự phong phú và đa dạng về văn
hoá cho dân tộc. Nguyễn Hoàng là người có
tầm nh́n sắc sảo, tư duy chiến lược
đối với vùng đất mới, qua đó
đặt cơ sở cho công cuộc mở đất
phương nam. Ông là người
đầu tiên của công cuộc và Gia Long là người
hoàn thành quá tŕnh thống nhất đất nước
năm 1802. Các giá trị vật
chất và tinh thần mà chúa Tiên đă mang lại cho
dân tộc là những công lao to lớn của tiền
nhân, v́ thế ông xứng đáng là "Anh hùng
mở cơi vĩ đại" [20].
TÀI
LIỆU THAM KHẢO 1. Ngô Sĩ
Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại
Việt sử kư toàn thư, Tập III, Bản
dịch Hà Văn Lâu - Ngô Thế Long, Hiệu đính
Giáo sư Hà Văn Tấn, Nxb Khoa học xă hội. 2.
Nguyễn Phan Quang - Trương Hữu Quưnh - Nguyễn
Cảnh Minh (1977), Lịch sử Việt Nam (1427 -
1858). Quyển 2 tập 1. Nxb Giáo dục. 3. Quốc
sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam
liệt truyện, Tập 1 - 2, Nxb Thuận Hóa. 4. George
Dutton (2019), Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn,
Nxb Tổng hợp TP.HCM và DT book. 5.
Nguyễn Duy Hinh (2013), Người Chăm xưa và
nay, Nxb Văn hóa thông tin. 6. GS. Phan
Huy Lê - PGS.TS Đỗ Bang (Đồng chủ biên)
(2014), Nguyễn Hoàng - Người mở cơi, Nxb
Chính trị quốc gia. 7. Tạp
chí Xưa & Nay số 503 tháng 01-2019. [1]
- Các Hội thảo khoa học: Nam Bộ và Nam Trung
Bộ những vấn đề lịch sử thế
kỷ XVII - XVIII.do Trường Đại học sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm
2002; Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam từ giữa thế
kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX do
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và UBND
tỉnh Thanh Hóa tổ chức năm 2008; Quảng
Trị - Đất dựng nghiệp của chúa
Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) do Hội Khoa học
Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế và UBND
tỉnh Quảng Trị đồng tổ chức năm
1013; Trung Bộ và Nam Bộ thời chúa Nguyễn
do Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên
Huế tổ chức năm 2017 [2]
- Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại
Việt sử kư toàn thư, Tập III, Bản
dịch Hà Văn Lâu-Ngô Thế Long, Hiệu đính Giáo
sư Hà Văn Tấn, Nxb Khoa học xă hội, tr 137. [3]
- Nguyễn Phan Quang-Trương Hữu Quưnh-Nguyễn
Cảnh Minh (1977), Lịch sử Việt Nam (1427-1858).
Quyển 2 tập 1. Nxb Giáo dục, tr. 70. [4]
- Tức cuộc hôn nhân của Chế Mân với Công
chúa Huyền Trân năm 1306. [5]
- Xin xem thêm PGS. Nguyễn Duy Hinh (2013), Người Chăm
xưa và nay, Nxb Văn hóa thông tin, tr 166 - 168. [6]
- Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại
Việt sử kư toàn thư, Tập III, Sđd,
tr 137. [7]
- Xin xem Phan Huy Lê (2014) Quảng Trị - Đất
dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng, trong GS.
Phan Huy Lê - PGS.TS Đỗ Bang (Đồng chủ biên)
(2014), Nguyễn Hoàng - Người mở cơi, Nxb
Chính trị quốc gia, tr 255 - 259. [8]
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại
Nam thực lục, Tập một, Nxb. Giáo dục,
tr. 27. [9]
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại
Nam liệt truyện, Tập 1-2, Nxb Thuận Hóa, tr
31. [10]
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại
Nam thực lục, Tập một, Sđd, tr. 27. [11]
- Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại
Nam thực lục, Tập một, Sđd, tr 44. [12]
- Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại
Nam thực lục, Tập một, Sđd, tr 46. [13]
- Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại
Nam thực lục, Tập một, Sđd, tr 86. [14]
- Vơ Vinh Quang (2019), "Bản sách phong quư của vua
Bảo Đại ban tặng cho Lăng Xuyên Quận vương
Nguyễn Uông", trong Tạp chí Xưa & Nay,
số 503, tháng 01 năm 2019, từ trang 50, 51 và 87. [15]
- George Dutton (2019), Cuộc nổi dậy của nhà Tây
Sơn, Nxb Tổng hợp TP.HCM và DT book, tr 60 - 61. [16]
- Nguyễn Xuân Hoa (2014), "Ba lần lập dinh
trấn ở Quảng Trị - Ba sách lược
của Nguyễn Hoàng" trong: GS. Phan Huy Lê - PGS.TS
Đỗ Bang (Đồng chủ biên) (2014), Nguyễn
Hoàng - Người mở cơi, Sđd, tr 122. [17]
- Nguyễn Xuân Hoa (2014), tlđd, tr 125 - 126. [18]
- Nguyễn Xuân Hoa (2014), tlđd, tr 130. [19]
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại
Nam thực lục, Tập một, Sđd, tr 37. [20]
- Xin xem Phan Huy Lê (2014), tlđd, tr 538. |