Huyền sử Rồng Tiên * Khảo luận |
Sinh
khí linh thiêng của những ngày khởi đầu năm
Rồng, gợi chúng ta nhớ đến mối tình
huyền sử giữa vua rồng Lạc Long Quân và nàng
tiên Âu Cơ. Tiên rồng xuất hiện một
lần rồi bỏ đi vào cõi mịt mờ.
Chuyện xưa trải qua đã 5.000 năm. Sử
liệu Vào
năm 2879 trước Công nguyên (BC), Kinh Dương Vương,
cháu ba đời vua Thần Nông, tuần du đến
Động Đình Hồ. Tại đây, vua gặp
giai nhân Long Nữ. Hai người kết hôn rồi
sinh ra Lạc Long Quân. Vị Lạc vương này
giống mẹ nên thuộc giống rồng. Lạc
Long Quân kết hôn với tiên Âu Cơ. Âu Cơ sinh ra
một cái bọc 100 trứng. Trứng nở ra 100 người
con trai. Một hôm Lạc Long Quân nói với Âu Cơ,
“Ta dòng rồng, nàng dòng tiên, chung hợp lâu không
được đâu. Vậy nàng đem 50 con lên núi.
Còn ta đem 50 con về miền biển.” Lạc Long
Quân dặn các con mỗi năm sẽ gặp nhau
một lần ở cánh đồng Tương.
Rồi ông lặn xuống thủy cung ở Nam
Hải. Thế là họ chia tay nhau. Những
người con của Rồng Tiên sau này lập ra nước
Văn Lang. Họ
phong con trưởng làm vua. Các vua của Văn Lang
đều lấy quốc hiệu là Hùng Vương.
Đến đời Hùng Vương thứ 18, năm
258 BC, thì chấm dứt. Văn
Lang chuyển qua đời nhà Thục. Di
tích về nguồn gốc rồng tiên còn lưu
lại rất nhiều, cổ nhất là hình chạm
trổ trên mặt trống đồng và lời
sớ của Tiết Tôn, đời Tam Quốc (220 –
280 BC). Tiết Tôn khi làm quan ở Giao Châu có báo cáo
rằng dân Lạc Việt có tục lệ xăm mình
vì họ tin mình là con cháu của rồng mà họ
gọi là Lạc Long Quân. Vào
thời Lạc Long Quân nước Trung Hoa chưa có.
Cả một đại lục Đông Nam Á mênh mông
là những lãnh thổ của các vị vua nhỏ
với hằng ngàn bộ tộc khác nhau. Trong số
đó có nước Văn Lang của bộ tộc
Lạc Việt. Mỗi nước đều có ngôn
ngữ và văn hóa riêng. Tuy nhiên ngày nay chúng ta
thấy các danh xưng thời Văn Lang đều
bằng chữ Hán. Chẳng phải tổ tiên ta đã
đặt tên theo chữ ngoại quốc. Sự
thật chỉ là các sử gia, cả ngàn năm sau,
phải tìm chữ để ghi lại một ý
niệm mà thôi. Chẳng hạn Lạc Long Quân chỉ
có nghĩa là vị chúa rồng của bộ tộc
Lạc. Âu Cơ là nàng chim âu xinh đẹp (cơ 姬
= cô gái đẹp). Văn
Lang 文
郎
là
chàng xăm mình. (1) Huyền
thoại Rồng Tiên là nhân thoại Đã
có nhiều dẫn giải về ý nghĩa huyền
sử rồng tiên và triều đại lập
quốc của vua Hùng. Những dẫn giải dựa
theo khảo cổ, sử học duy lý, cổ học
Trung Hoa... Chúng tôi không muốn lặp lại những
hướng đi này. Nói một cách cụ thể hơn,
chúng tôi không bàn về thuyết thần linh theo
kiểu thần thoại Hy Lạp, hay dẫn giải
theo nhân chủng học miền bán đảo Đông
Nam Á, hay cổ triết Trung Hoa.v.v... Tuy tôn trọng
những ý kiến trên, nhưng chúng tôi e rằng
gọt tỉa hay thêm thắt vào truyền thuyết
rồng tiên cho phù hợp với những phạm trù
của những khuynh hướng đó, e rằng có
vẻ gán ghép quá đáng. (2) Vấn
đề đặt ra là nếu có một cậu
học trò nhỏ hỏi chúng ta, “Làm sao rồng tiên
lấy nhau được? Tại sao người
lại đẻ ra trứng? Thật là vô lý.” Chúng
ta trả lời làm sao. Đã có rất nhiều người
trả lời rằng, “Đó chỉ là truyện
thần thoại hoang đường biểu lộ
niềm kiêu hãnh dân tộc.” Trả lời như
vậy rất thiếu sót và mù mờ. Nếu cho là
truyện thần thoại hoang đường sao chúng
ta không bỏ nó đi. Ai cũng biết chúng ta không
thể loại bỏ đoạn sử mở đầu
đó. Bởi vì toàn thể văn hiến nước
ta đặt trên nền tảng Rồng Tiên này.(3) Vấn
đề đúng lý là chúng ta thiếu một hệ
thống tư tưởng để nhìn ra ý nghĩa
của huyền sử. Trước hết chúng ta nên
phân biệt truyền thuyết Rồng Tiên không
phải là thần thoại, mà là nhân thoại.
Thần thoại là chuyện những vị thần có
quyền phép xuống thế cứu đời như
trường hợp các vị thần Hy Lạp. Nhân
thoại là người trần được tôn vinh
lên là thần, như Lạc Long Quân, Âu Cơ, Phù
Đổng Thiên Vương... Vào thời cổ, người
ta thường giải thích những sức mạnh
huyền bí trong thiên nhiên bằng cách tin vào thần
linh. Chẳng hạn, dân Hán thấy sấm sét thì tin
rằng thần Thiên Lôi tạo ra. Trong khi đó nhân
thoại tin vào khả năng con người tạo
ra. Dân Việt giải thích bão lụt bằng nhân
thoại Thủy Tinh dâng nước đi tìm Mị Nương.
Thần thoại vẽ ra một khung cảnh xã
hội không có lịch sử. Nhân thoại vừa là
huyền thoại vừa có tính lịch sử. Vì
vậy huyền sử Rồng Tiên là một tổng
hợp giữa văn hóa, thiên nhiên, và cảm ứng
xã hội bộ tộc (nền tảng totemism). (4) Chúng
ta hãy quan sát một hình chạm tiêu biểu, căn
cứ theo trống đồng Ngọc Lũ.
Đây
là hình thuyền rồng. Thuyền
cong theo hình cung. Giữa thuyền có một cột
trụ trang trí hình chim. Trên thuyền có 5 người
đội mão hóa trang chim âu. Gần cuối thuyền
có chiếc ghế (?) hình hươu, trên có một
vị mặc áo bào lông chim, tay cầm cái khiên và
một cây giáo. Có lẽ đó là vị chỉ huy
thuyền. Đầu thuyền là đầu rồng há
miệng ngậm con chim âu. Hoạt cảnh này là
bằng chứng tôn vinh vật tổ (totem). Ở
đây là lưỡng tổ Rồng Tiên. Khởi
đầu con người chưa có chữ viết.
Lịch sử được lưu lại qua ngôn
thoại và hình tượng. Vì vậy chúng ta phải
để ý đến cấu trúc ngôn ngữ dân
thoại và biểu tượng hơn là chữ
viết. Huyền sử Rồng Tiên giải thích
nguồn gốc dân Việt ta với lòng tri ân và kiêu
hãnh dân tộc. Chúng ta là ai, từ đâu tới, và
tại sao? Khả
năng niệm tưởng về thực tại Niệm
tưởng là nhớ về một hình ảnh mang ý
nghĩa nào đó. Công dụng của niệm tưởng
là đặt ra những biểu tượng để
cụ thể hóa cõi siêu việt của lãnh vực tư
tưởng siêu hình. Lãnh thổ Văn Lang một bên
là sông biển mênh mông vô bờ bến, một bên là
núi rừng hùng vĩ bất tận. Huyền sử
lập quốc của Văn Lang bắt buộc
phải có niệm tưởng của hai yếu
tố đó. Vì vậy mà có rồng là biểu tượng
linh khí của nước, tiên là biểu tượng
linh khí của núi rừng. Người cổ thời
chỉ có thể diễn tả mối cảm thức
huyền bí thiên nhiên này bằng thi ca và bằng
huyền thoại. Trong cấu trúc đó tất cả
những hình ảnh chỉ là những biểu tượng
nhằm ý tỷ dụ (analogies) và chuyển hóa
(transformations) đến một hệ thống tư tưởng
siêu việt. Nếu câu chuyện đứng một mình
chúng chỉ là một tập hợp những hình
ảnh (images). Nếu chỉ nhìn vào hình ảnh, chúng
ta sẽ thất bại và chỉ có thể đi
đến kết luận: “chuyện hoang đường
của mộng tưởng”. Theo A. G. Lehmana biểu tượng
là điểm chuyển hóa của lịch sử
về ý thức siêu việt. Huyền sử (玄
huyền = lý lẽ sâu
xa) không đưa ra một sự thật bởi chính
nó, nhưng chỉ là niệm tưởng để trình
bày một linh ảnh cảm quan (perspective). Cái nói ra
chỉ là thể (form) cái không thể nói ra mới là
dụng (function) và chỉ có thể được trình
bày bằng một hình thức thi vị hóa. Huyền
sử chỉ có giá trị khi chúng ta thấy chúng là
những khái niệm của nguồn giải mã
(references). Vì vậy khi đọc huyền sử chúng
ta phải chuyển từ cảnh giới hoang
đường qua cảnh giới nội dung thông
điệp của nó. Về
hình thức, Âu Cơ đẻ ra một cái bọc có
100 trứng là điều hợp đạo lý. Chim,
rồng (rắn, cá sấu) là loài đều đẻ
ra trứng. Niệm tưởng cùng một nguồn
được thi vị hóa bằng biểu tượng
cái bọc. Nhờ có cái bọc mà chúng ta có thể
gọi nhau là “đồng bào” (cùng ở trong
một bọc). Niệm tưởng cộng đồng
là biểu tượng 100 trứng. Tất cả
chúng ta đều là anh em. Tuyệt diệu hơn
nữa 100 con đều nở ra một lượt. Ý
của tiền nhân muốn nói mọi công dân đều
bình đẳng như nhau. Thật vậy xã hội
Việt Nam là một xã hội không có giai cấp
đối chọi nghiệt ngã như xã hội Trung
Hoa hay Ấn Độ. Về con số 100, sử gia thường
diễn giải là “bách Việt”, tức bao gồm
các nhóm thuộc bộ tộc Lạc Việt. Về
ý chính sử, ta có thể hiểu như vậy, nhưng
về ngôn ngữ bình dân, số 100 chỉ là ngữ
vựng biểu tượng chỉ số nhiều. Nó
không phải số đếm. Chúng ta thường nói:
con cãi cha mẹ trăm đường con hư, trăm
sự nhờ thầy, trăm thứ bà giằn, trăm
công nghìn việc… Trăm trứng có nghĩa là
nhiều trứng, tức trọn vẹn tất cả
mọi người.
+
Nguồn minh họa: Internet. Về
mặt xã hội, cha Rồng bỏ đi để
lại các con ở với mẹ là biểu tượng
của chế độ mẫu hệ. Lạc Long Quân
thuộc giống rồng của mẹ cũng là cách
chỉ về mẫu hệ. Từ ngữ dân gian
“tổ tiên” cũng có ý nói mẫu hệ vì
chỉ là chim mới có tổ. Chim đây là biểu tượng
của tiên. Sự kiện các con tách ra hai nhóm
nhiều người bi quan vội vàng cho rằng đó
là dấu hiệu xã hội chia rẽ đã có từ
thời lập quốc. Trái lại sự tách biệt
không hề có ý chia rẽ, nhưng đã đưa ra
một lối thoát đạo đức cho một
ức chế xã hội. Hình ảnh phân chia này
chỉ nhằm giải thích tại sao trong một
quốc gia mà có nhóm dân sống ở cao nguyên và nhóm
dân sống ở đồng bằng ven biển.
Huyền sử Rồng Tiên ghi lại sự khác
biệt theo địa dư nhưng không đào sâu
sự xung khắc. Vì có hai nhóm dân khác nhau nên mới
có lưỡng tổ Rồng Tiên. Rồng Tiên là
một đôi uyên ương. Tổ tiên Việt đã
có công gom toàn dân lại thành một nguồn. “Tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn” (Ca dao).
Tất cả đều là anh em đồng bào
ruột thịt. (5) Về
mặt siêu việt, niệm tưởng hoàn mỹ là
biểu tượng của lượng số. Đó
là con số 18. Nếu tính theo số đếm thì
triều đại vua Hùng gồm 18 đời,
vậy mỗi đời dài 146 năm. Điều này
không thể là sự thật. Do đó con số 18
chỉ là huyền số. Trên mặt trống đồng
cũng có 18 con chim. Đào sâu vào văn hóa Đông Phương,
con số 18 cũng xuất hiện rất nhiều.
Theo truyền thuyết Trung Hoa, ông tổ loài người
là ông Bàn Cổ. Ông ta ngủ trong quả trứng 18
ngàn năm mới chui ra ngoài. Phật môn được
bảo vệ bởi 18 vị La Hán. Võ học có
thập bát ban võ nghệ. Như vậy theo lý học
Đông Phương con số 18 chỉ là thuật
ngữ chỉ sự hoàn mỹ vẹn toàn. Nhưng
tại sao các vua Văn Lang đều lấy tên là Hùng
Vương. Lối đặt danh hiệu dựa vào
người đã qua đời là niệm tưởng
của sự trường tồn. Giá trị của
người đời sau là giá trị tiếp
nối công trình của người đi trước.
Đời này tiếp đời kia, tất cả
chỉ là một triều đại vua Hùng, một
bản thể trường tồn trong thời gian. Kết
luận
Một
số người có khuynh hướng loại bỏ
huyền sử Rồng Tiên hoặc cắt bỏ
những chi tiết mà họ cho là hoang đường
để đưa vào mạch chính sử. Vô tình
họ đã từ chối đoạn lịch sử
siêu việt giải thích nguồn gốc và sự thâm
sâu của đời sống nội tâm. Nhà dân
tộc học trứ danh Levi Strauss đã phê bình
tật quá chú trọng đến lịch sử
khiến có một cái nhìn rất hạn chế. Qua
thuyết cấu trúc (Structuralism) Strauss cho rằng
nhờ có huyền thoại mà thế giới huyền
bí xa lạ trở thành thế giới gần gũi
thân thiện của con người. Truyền
thuyết Rồng Tiên mời mọc chúng ta tiến xa
hơn không ngừng tra cứu một sứ điệp
cần được tiếp nối. Chúng ta đi tìm
cái hương vị, cảm xúc, và ý nghĩa của
nó hơn là những sự kiện hiện tượng.
Vượt ra khỏi cái ranh giới huyền sử,
truyền thuyết Rồng Tiên diễn tả chính xác
về tất cả những gì của thời lập
quốc và kỳ vọng của tổ tiên nước
ta. ĐỖ
NGỌC TRANG _____
(1)
“Lạc” nghĩa là gì? Nó có phải là tên họ
hay không? Chúng ta chưa hề thấy người
Việt nào có họ Lạc. Giáo sư Kim Định
căn cứ vào Hán tự từ cổ sử Trung Hoa
truy nguyên chữ Lạc 雒
có bộ chuy 隹.
Chuy
là loai chim mỏ dài, đuôi dài. Ông suy ra Lạc là
một loại chim. (Sứ Điệp Trống Đồng.
1984. San Jose, 52-7). Theo khuynh hướng nghiên cứu
ngữ học, Giáo sư Vũ Thế Ngọc cho
rằng “Lạc” là phiên âm chữ lak hay nak mà thành.
Lak (hay nak) tiếng Việt cổ nghĩa là “nước”,
ngụ ý nói ruộng nước. Ruộng nước
là nét đặc thù của lãnh thổ Việt khác
với miền Bắc của người Hán trồng
lúa trên ruộng khô. Lạc tộc là giống dân canh
tác lúa trên ruộng nước. (Đặc
san Đền Hùng – Xuân Kỷ Tỵ 1989, San Jose,
California.) Chúng tôi nêu ra hai ý kiến trái nghịch
để cho thấy sự đa dạng của
những hướng giải thích khác nhau. (2)
Một thí dụ điển hình, năm 1916, nhà Hán
học (Sinologist) Henri Maspéro căn cứ vào cổ thư
Tàu lập luận rằng chữ Lạc 雒
bị sử gia
Việt sao chép lầm thành Hùng 雄
vì
hai chữ giống nhau. Vậy phải loại bỏ
chữ Hùng Vương đi cho đúng với chính
sử. Một số học giả Việt, như
Đào Duy Anh đã ngả theo lập luận đó
khi viết quyển Cổ Sử Việt Nam (Hà
Nội, 1955). Tuy nhiên nhiều sử gia và triết gia
khác đã phản bác kịch liệt ý kiến này.
Đối với họ chữ Lạc và chữ Hùng
rất khác nhau. Hùng Vương là vương hiệu
không phải là tên. Lạc vương lên ngôi lấy
hiệu là Hùng Vương không có gì là sai. Chúng tôi
không muốn bị vướng mắc vào căn
“bệnh khảo chứng” này. (3)
Sách sử đầu tiên của nước ta là
bộ Đại Việt Sử Ký (1272) do sử gia Lê
Văn Hưu soạn. Sách không nhắc đến
chuyện Rồng Tiên. Đến cuối thế
kỷ 15, một danh sĩ nhà Trần (không rõ tên)
soạn ra sách Lĩnh Nam Trích Quái (gom nhặt những
tích lạ ở đất Lĩnh Nam) trong đó có
ghi chuyện Rồng Tiên. Cũng khoảng thời gian
đó (1479) Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư tuy có ghi chuyện Rồng
Tiên nhưng cho vào phần ngoại kỷ. Đến
năm 1916, Trần Trọng Kim soạn bộ Việt
Nam Sử Lược lại mang chuyện Rồng Tiên
vào chính sử. Từ đó truyền thuyết
Rồng Tiên trở thành chính sử của nước
Việt. (4)
Trần Văn Đoàn (giáo sư Triết học -
Đại học Đài Loan) đặt nhân thoại
trong triết lý tam tài: thiên địa nhân. Trong đó
tam tài nối kết nhau theo hàng ngang. Con người
ngang hàng với thần thánh. Cổ nhân đã dùng
khả năng của con người để
giải thích ngoại lực. Đó là lối suy tư
của những người về những giá trị
tuyệt đối. Bản tính tuyệt đối là
một cảm thức kỳ vọng về một
thế giới tốt đẹp. Theo Trần Văn
Đoàn, nguồn cảm thức của cổ nhân,
người đời sau chỉ có thể thấy xuyên
qua huyền thoại và Việt thoại. (Xin xem thêm
“Mạt thế luận trong ca dao tục ngữ”.
Trần Văn Đoàn. Website Diễn đàn Ca dao
Tục ngữ). Xin
nói thêm, ý tam tài cũng thấy rõ qua những hình
khắc trên mặt trồng đồng. Ở trung tâm
là mặt trời tỏa ánh sáng theo hình sao, tượng
trưng cho “thiên”. Kế đó là hai vòng người,
tức “nhân”. Ngoài cùng là vòng hình thú và chim, tượng
trưng cho thiên nhiên, tức “địa”. (5)
Triết gia Kim Định (1915-1997), tác giả tủ sách
Việt Triết (gồm 32 cuốn, tương
đương 7000 trang), phát triển thành tố
Rồng Tiên trong động lực lưỡng nghi Âm
Dương. Qua cuộc khảo cứu huyền sử
Rồng Tiên và ngôn ngữ dân gian, ông nhận ra
sự tương đồng giữa khái niệm tương
khắc trong văn hóa Việt và trong Dịch lý.
Từ đó ông thận trọng đưa ra giả
thuyết Kinh Dịch là tác phẩm của dân
Việt, không phải của dân Hán như người
ta lầm tưởng. Luận cứ của ông không
phải là không có cơ sở. Vào thời đó nước
Trung Hoa chưa ra đời. Xét về lãnh thổ, nước
Văn Lang ở tận sâu trong lục địa
cổ. Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ
Nam) Nam giáp nước Hồ Tôn. Tây giáp Ba Thục
(Tứ Xuyên và Vân Nam). Đông giáp Nam Hải. Do đó
tuy dân Việt ở trong lục địa cổ nhưng
thể nói là thuộc Trung Hoa. Về thời gian,
truyền thuyết Rồng Tiên có cách đây 5.000 năm,
trong khi Kinh Dịch có cách đây 2.500 năm. Vì
vậy không thể nói chuyện Rồng Tiên nằm
trong những phạm trù của Kinh Dịch, mà
phải nói ngược lại. Về sự kiện các
con ở với mẹ Âu Cơ cũng rất phù
hợp với chủ trương mẫu tính của
Kim Định mà ông gọi là triết lý mẹ. Một
chút về triết gia Kim Định. Cụ tên là Lương
Kim Định, người Nam Định. Tốt
nghiệp Triết tại Institut
Catholique de Paris
và Nho học tại Institut
des Hautes Etudes Chinoises.
Cụ là linh mục, triết gia, và giáo sư các trường:
Đại học Văn khoa Saigòn, Đại học
Vạn Hạnh, Đại học Đà Lạt, trước
năm 1975. Cụ là người sáng lập ra ngành
Triết Đông tại các viện đại học
trên. Theo Bách khoa Từ điển Wikipedia, “ông
có công lớn trong việc xây dựng nền tảng
cho triết học Việt Nam (mà ông gọi là
Việt Triết hay Việt Nho). Ngày nay, tổ chức
An Vi (An Việt, nghiên cứu triết học Việt
Nam) xem ông như tổ sư triết học.” Tài
liệu tham khảo: Claude
Lévi-Strauss. 1966.
The Savage Mind. Nguyên bản tiếng Pháp “La Pensée
Sauvage”. George Weidenfeld và Nicolson Ttd dịch ra Anh
ngữ. The University of Chicago Press, Chicago Evelyn Underhill. 1920. The essentials of Mysticism. J.M. Dent & Sons LTD. New York. James
A. Boon. 1972. From Symbolism to Structuralism: Lévi-Strauss in a
Literary Tradition. Harper & Row, Publishers. New York. Kim
Định. 1984. Hùng Việt Sử Ca. Nhà
xuất bản Thằng Mõ, San Jose, California. Phạm
Văn Sơn. Việt Sử Toàn Thư. 1960. Nhà
xuất bản Thư Lâm Ấn Thư Quán. Saigòn. |