Quốc Kỳ Việt Nam: Nguồn Gốc và Lẽ Chính Thống

 

Kỹ Sư Nguyễn Đ́nh Sài, SQHQ K16 Nha Trang

 


  3. Tính chất "phi cách mạng" của cuộc chính biến tháng 8, 1945 tại Hà Nội

Bàn về Cờ Đỏ mà không phân tích về các biến chuyển thời sự vào tháng 8-45, thiết tưởng là một thiếu sót, v́ Cờ Đỏ gắn liền vói cuộc chính biến lịch sử này.

Sau khi Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương, chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập từ tháng ba, năm 1945, tồn tại cho đến khi Mỹ thả hai quả bom nguyên tử trên đất Nhật hai vào ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, đưa đến sự đầu hàng vô điều kiện của Nhật. Tiếp theo đó, khắp ba miền, các biến chuyển thời sự dồn dập cho đến cuối tháng 8.

Ngày 12-8-45, Phong Trào Phụng Sự Quốc Gia của ông Trần Văn Cương tổ chức biểu t́nh tại Hà Nội, hô hào dân chúng đoàn kết cứu nước. Tại Thuận Hóa, ông Trần Trọng Kim không mời được người tham gia chính phủ mới v́ không ai muốn phục vụ dưới chế độ thân Nhật nữa.

Ngày 14-8-45, tại Sài G̣n, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt ra đời gồm Cao Đài, Ḥa Hảo, Liên Đoàn Công Chức, Thanh Niên Tiền Phong, Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng của quư ông Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân.

Ngày 16-8-45, ông Hồ Chí Minh cùng các đảng viên kỳ cựu của đảng Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế như các ông Vơ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Chu Văn Tấn, Phạm Văn Đồng, v.v..., dưới b́nh phong là Mặt Trận Việt Minh, triệu tập "Đại Hội Quốc Dân" tại Tuyên Quang, tuyên bố thành lập nước "Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa" và phát động cuộc "tổng khởi nghĩa". Lúc bấy giờ rất ít người biết đến tung tích đích thực của những người này, nhưng tin đồn về Mặt Trận Việt Minh "tổng khởi nghĩa" tràn lan khắp nước.

Ngày 17-8-45, tại Thuận Hóa, vua Bảo Đại chủ tọa buổi họp chính phủ Trần Trọng Kim. Buổi họp đưa đến một số quyết định quan trọng của Bảo Đại như sau:

* Chấp thuận bản dự thảo thông điệp kêu gọi các quốc gia Đồng Minh giúp đỡ, bảo đảm nền độc lập của Việt Nam.

* Ban hành đạo dụ số 105 t́nh nguyện trao quyền điều hành đất nước cho một chính phủ "cộng ḥa dân chủ" và sẵn sàng tuân theo thể chế mà nhân dân quyết định.

* Xuống chiếu tuyên bố cùng toàn dân rằng nhà vua đặt hạnh phúc của nhân dân lên trên ngai vàng nhà Nguyễn, "muốn làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nưóc nô lệ", và kêu gọi toàn dân đoàn kết, tham gia việc nước.

Cũng cùng ngày hôm đó, công chức Hà Nội tổ chức biểu t́nh để ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng được nửa buổi th́ bị đảng viên Cộng Sản thuộc Mặt Trận Việt Minh trà trộn vào đoàn biểu t́nh, phất cờ đỏ sao vàng, bắn súng thị uy và lái cuộc biểu t́nh thành cuộc biểu t́nh hoan hô Việt Minh. 

Ngày Chủ Nhật 19-8-45, Tại Hà Nội, Việt Minh vận động hàng ngàn đồng bào cầm nhiều Cờ Đỏ Sao Vàng, kéo tới quảng trường Ba Đ́nh, trước dinh của Khâm Sai Phan Kế Toại để biểu t́nh. Tại đó, các cán bộ Việt Minh dùng súng uy hiếp bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, "Giám Đốc Ủy Ban Chính Trị Miền Bắc" phải ra lệnh cho binh sĩ Bảo An mở cửa dinh. Cán bộ Việt Minh tước khí giới của họ, chiếm Khâm Sai Phủ và Toà Thị Chính. Sau đó, cuộc biểu t́nh biến thành buổi ra mắt "Mặt Trận Việt Minh Cứu Quốc". V́ biến cố này, nhóm chữ "Việt Minh cướp chính quyền" bắt đầu được dùng tới, đối nghịch với nhóm chữ "Cách Mạng Tháng 8" mà các sử gia đảng Cộng Sản Việt Nam sử dụng sau này.

Cũng trong ngày 19-8-45, tại Sài g̣n, Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Gia ra đời. Tổ chức này chủ trương giao thiệp và tiếp nhận khí giới cùng các công cụ do Nhật bàn giao. Tuy nhiên, không được bao lâu th́ cán bộ Việt Minh đă thuyết phục họ rằng Việt Minh được Đồng Minh xem là tổ chức "kháng Nhật", nên để cho Việt Minh tiếp thu vũ khi Nhật th́ mới được Đồng Minh tiếp tục ủng hộ. Nhờ đó, Việt Minh đă gấp rút thành lập các Ủy ban Nhân Dân địa phương. Đến ngày 24-8-45 th́ Việt Minh thực sự nắm chính quyền ở Sài g̣n, với sự ra đời của "Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ Lâm Thời".

Theo cuốn SAIGON (Anthoney Grey), sau khi tuyên bố "Tổng Khởi Nghĩa" tại Cao Bằng th́ ông Hồ Chí Minh cùng bộ chỉ huy kéo về Hà Nội, dẫn theo một số người Mỹ. Họ vốn là những điệp viên OSS đă nhảy dù xuống vùng thượng du Bắc Việt vào đầu năm 1945, để tiếp tế vũ khí và huấn luyện cho bộ đội Việt Minh t́m cứu các phi công Mỹ bị Nhật bắn hạ. Ông Vơ Nguyên Giáp đă phái những toán bộ đội Việt Minh đi trước mở đường. Họ hô hào dân chúng ra đón tiếp, để người Mỹ tưởng là Việt Minh được nhân dân ủng hộ, đồng thời để nhân dân tưởng rằng Việt Minh được Hoa Kỳ ủng hộ. Họ cũng đốt phá các làng mạc nào không chịu ra đón tiếp họ và vu cáo hành động tàn phá cho Việt Quốc (VNQDĐ). Vơ Nguyên Giáp c̣n phái các toán Việt Minh đi sau phá cầu đường để ngăn chặn cuộc trở về Hà Nội của Việt Cách và "Quốc Dân Quân". Phần th́ bị các chướng ngại ngăn trở, phần th́ yếu thế hơn Việt Minh, lực lượng Việt Cách đă kẹt ở biên giới Việt Trung từ khi Nhật đầu hàng cho đến đầu tháng 9 mới theo quân đội Trung Hoa Quốc Gia do Lư Hán thống lănh về Hà Nội. V́ thế các cuộc biểu t́nh tại Hà Nội trong tháng 8, 1945 đă không có sự tham dự của các lực lượng cách mạng quốc gia.

Những cuộc vận động của Việt Minh nhằm tiếp thu chính quyền quốc gia được kể là hoàn tất khi vua Bảo Đại ban hành chiếu thoái vị vào ngày 25-8 tại Huế, và "nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một chính phủ dân chủ cộng ḥa." Bảo Đại kết thúc chiếu thoái vị với hai câu khẩu hiệu: "Việt Nam độc lập muôn năm!" "Dân chủ cộng ḥa muôn năm!"

Ngày 30-8-45, lễ Thoái Vị được cử hành trọng thể vào lúc 12 giờ trưa trước cửa Ngọ Môn, đến 2 giờ chiều đă có hàng vạn người. Sau khi vua Bảo Đại đọc xong chiếu thoái vị, th́ Long Tinh Đế Kỳ được kéo xuống và Cờ Đỏ Sao Vàng của Việt Minh được kéo lên. Trong cuốn hồi kư "Con Rồng Việt Nam", cựu hoàng Bảo Đại tóm lược t́nh trạng bấy giờ như sau: "... lợi dụng sự tuyên truyền phóng đại và đe dọa, người của Việt Minh như đoạt được quyền hành trên toàn quốc, trong mười lăm ngày sau khi quân Nhật đầu hàng."

Xuyên qua các dữ kiện lịch sử nêu trên, một vấn đề khúc mắc được nêu lên từ 1945 đến nay: Cuộc chính biến tháng 8 năm 1945 do Việt Minh chủ động có phải là một cuộc "cách mạng chân chính" hay không?

Để giải đáp rốt ráo vấn đề này, trước hết, ta hăy xem lại các định nghĩa về danh từ "cách mạng".

Theo nghĩa chữ Hán, "cách" là "thay đổi, bỏ đi", "mạng" hay "mệnh" là "sự sống"; chữ "cách mạng" viết kép nghĩa là "thay đổi triều vua".

Theo nghĩa Tây Phương, "cách mạng" là "revolution", nghĩa là "a political movement which seeks to overthrow a government", một phong trào chính trị nhằm loại bỏ một chính phủ.

Như vậy, một cuộc "cách mạng chân chính" cần hội đủ các đặc tính: Tính "thay cũ đổi mới", tính "dân tộc", tính "độc lập", tính "tự chủ", tính "quần chúng", và tính "đoàn kết". Sau đây ta thử xét xem các đặc tính trên có trong cuộc chính biến tháng 8, 1945 hay không.

- Tính "thay cũ đổi mới": Biến cố tạo nên hậu quả cáo chung một chế độ cũ và thay thế bởi một chế độ mới.

- Tính "độc lập": Biến cố tự phát sinh mà không do sự hỗ trợ biểu kiến của một ngoại bang nào.

- Tính "tự chủ": Biến cố không bị kềm chế hay ảnh hưởng trực tiếp bởi một lực lượng ngoại lai nào.

- Tính "quần chúng": Biến cố được sự tham dự của nhiều người. Sự tham dự này có thể là do tự nguyện, được vận động, hay bị ép buộc.

- Tính "dân tộc": Biến cố được phát khởi từ một hay nhiều thành phần dân tộc để phục vụ dân tộc chứ không nhằm phục vụ một ư thức hệ nào.

- Tính "đoàn kết": Biến cố tận dụng các tài nguyên của đất nước như thời Kháng Nguyên của Nhà Trần và Kháng Minh của nhà Lê thuở trước.

Xét về mặt biểu kiến, cuộc chính biến tháng 8 năm 1945 do Việt Minh chủ động có một số đặc tính "cách mạng", v́  những sự kiện sau:

- Sự thật 1: Nó có tính "thay cũ đổi mới", đưa đến sự cáo chung triều đại quân chủ nhà Nguyễn để tiến dần đến các chế độ mới sau này.

- Sự thật 2: Nó có tính "độc lập", thể hiện ḷng khát vọng của toàn dân, kể cả hoàng đế Bảo Đại, muốn thấy đất nước được độc lập, không c̣n bị đô hộ bởi thực dân Pháp nữa. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội từ lúc thành lập đă có chủ trương chống cả Pháp và Nhật để dành độc lập cho nước nhà. Nhiều người không cộng sản đi theo Mặt Trận Việt Minh từ tháng 8, 1945 về sau cũng v́ tán thành chủ trương độc lập đó.

- Sự thật 3: Nó có tính  "tự chủ". Vào thời điểm tháng 8, 1945, tại Đông Dương có ba lực lượng ngoại bang: Pháp, Nhật, và Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch. Mặt Trận Việt Minh không dựa vào Trung Hoa Dân Quốc, Pháp cũng như Nhật.

- Sự thật 4: Nó có tính "quần chúng". Với kỹ thuật sách động và hù họa dân chúng của Việt Minh, hàng vạn người đă tham gia các cuộc biểu t́nh 19-8 và 2-9, tạo nên khi thế quần chúng chưa bao giờ có.

Đọc đến đây ắt có người về phía "Quốc Gia" sẽ tranh luận ngay rằng cuộc chính biến tháng 8, 1945 không thể có tính "độc lập" hay "tự chủ". Họ sẽ nêu ra dữ kiện rằng "Thành phần chính phủ mà Hồ Chí Minh công bố ngày 2-9-45 hết thảy là cộng sản Việt Nam, là tay sai của Liên Sô và Trung Cộng, nên cuộc chính biến tháng 8 bị lệ thuộc vào lực lượng ngoại bang."

Sự tranh luận ấy không đúng theo lịch sử. Vào giữa thập niên 1940, thế lực chính trị của Liên Sô c̣n yếu. Lực lượng quân sự của Liên Sô đang dồn vào mặt trận Đông Âu, không có chút ảnh hưởng nào tại Đông Dương ngoài việc huấn luyện ư thức hệ cho các đảng viên đảng Cộng Sản Đông Dương. Trung Hoa c̣n thuộc chế độ Cộng Ḥa của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, từ Tôn Dật Tiên chuyển xuống Tưởng Giới Thạch, đang vất vả chống Nhật ngay trên lănh thổ của họ và phải nhờ Hoa Kỳ trấn giữ các căn cứ chiến lược vùng đông nam Hoa Lục. Lực lượng Trung Cộng của Mao Trạch Đông chỉ mới phôi thai ở miệt tây bắc Trung Quốc, lúc ấy chưa hề bén mảng đến miền nam; măi đến năm 1949, dành được Hoa Lục, mới bắt đầu ảnh hưởng vào vùng Đông Dương. Lúc bấy giờ Mặt Trận Việt Minh cũng là một trong những thành phần dân tộc, cho dù họ là "thành phần xấu" đi nữa, và sự tham gia của quần chúng quả thật là xuất phát từ khát vọng độc lập của họ, không bị Liên Sô và Trung Cộng trực tiếp ảnh hưởng. Việt Minh cướp chính quyền hoàn toàn là do sức của Việt Minh và quần chúng VN, th́ phải gọi biến cố ấy có tính "tự chủ". (Ảnh hưởng của hai đảng Cộng Sản Liên Sô và Trung Quốc chỉ mới có từ thập niên 1950 trở đi, đặc biệt là việc cung cấp vũ khí cho Việt Minh trong trận Điện Biên Phủ và cuộc xâm chiếm miền Nam.) Mặt khác, nếu nói đến "ảnh hưởng" về vật chất, tư tưởng, và tinh thần th́ phải kể đến ảnh hưởng trực tiếp của Hoa Kỳ qua ba sự kiện quan trọng: Thứ nhất, toán điệp viên OSS (Office of Strategic Services) của Hoa Kỳ đă cung cấp vũ khí, đạn dược, và luấn luyện cho Việt Minh. Thứ hai, khi đoàn quân Việt Minh rời Cao Bằng về Hà Nội từ ngày 20 đến 25 tháng 8, toán OSS đă đi theo bên cạnh Hồ Chí Minh (lúc ấy là điệp viên OSS với bí danh Lucius) và Vơ Nguyên Giáp. Thứ ba, bản "tuyên ngôn độc lập" mà Hồ đọc trước quảng trường Ba Đ́nh ngày 2-9 đă phỏng theo bản "Declaration Of Independence" ngày 4 tháng 7, 1776 của Hoa Kỳ. Ba sự kiện này đă tạo cho dân chúng cảm tưởng là Việt Minh được Hoa Kỳ hỗ trợ. Nhờ thế mà dân chúng đă theo Việt Minh lúc đó và sau này. Dù vậy, những ảnh hưởng đó chỉ là phụ thuộc, không v́ thế mà mất đi tính "tự chủ" của cuộc chính biến, hoặc cho rằng nó bị lệ thuộc vào Hoa Kỳ, bởi v́ tất cả những kế hoạch và hành động "dành chính quyền" đều do người Việt Nam (Mặt Trận Việt Minh) chủ tŕ, chứ Mỹ, Nga, Tàu, Nhật, và Pháp không có ảnh hưởng ǵ cả.

Tuy nhiên, phân tích kỹ hơn, cuộc chính biến tháng 8, 1945 dù có một số đặc tính "cách mạng" biểu kiến, nó lại không xứng đáng để được vinh danh là một cuộc "cách mạng dân tộc" đúng nghĩa, tức là "thay thế chế độ cũ xấu bằng chế độ mới tốt hơn" (Hán-Việt Từ-Điển Đào Duy Anh). Lấy một ví dụ dễ hiểu: Một người có dáng vẻ là nhà tu hành, chưa hẳn người đó đích thực là người tu hành. Ngoài nhân dáng, y phục, người ấy c̣n phải hành đạo theo như giới luật của một nhà tu hành, th́ mới đúng là nhà tu hành.

Cuộc chính biến tháng 8, 1945 thiếu các đặc tính sau đây:

- Sự thật 5: Nó thiếu tính "dân tộc". Như phần III.2 đă tŕnh bày, chính phủ được ông Hồ Chí Minh công bố ngày 2-9-1945 đều là đảng viên Cộng Sản Đệ Tam. Họ chỉ có mục đích tối thượng là phục vụ cho lư tưởng Quốc Tế Đại Đồng theo Duy Vật Biện Chứng Pháp. Họ chỉ mượn chiêu bài "dân tộc" để tiến hành sách lược đó mà thôi.

- Sự thật 6: Nó thiếu tính "đoàn kết". Như chúng ta đă biết, trước khi Nhật đầu hàng, các tổ chức cách mạng đă kết hợp thành Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, mà Việt Minh là một thành phần. Không được bao lâu th́ Việt Minh tách ra, tạo nên mầm mống chia rẽ giữa Việt Minh và các tổ chức. Rồi khi Nhật đầu hàng, th́ Việt Minh cho ra đời "Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời" ngày 19-8-45 chỉ toàn là cán bộ Cộng Sản. Danh sách này đă được ông Hồ công bố ngày 2-9-45 cộng thêm một vài người thuộc tổ chức ngoại vi của đảng CSĐD. C̣n các tổ chức "quốc gia" th́ không có đại diện trong chính phủ ấy. Việt Minh cũng gia tăng sự chia rẽ và bất tín đối với nhà cầm quyền với cuộc "bầu cử Quốc Hội gian lận" ngày 1 tháng 6, 1946. Chính v́ sự "độc chiếm chính trị" này mà nhiều thành phần dân chúng đă nổi dậy biểu t́nh chống chính phủ hàng ngày gần như cơm bữa, nhất là sau khi Mặt Trận Việt Cách và Việt Quốc về đến Hà Nội. Ngoài ra, sau khi dành được chính quyền, Việt Minh quay ra tiêu diệt các tổ chức cách mạng như Việt Cách và Việt Quốc. Hành động tàn nhẫn ấy đă khởi đầu cho cuộc tương tranh dài 30 năm trường, tiêu hao xương máu của hàng triệu người dân lành của cả hai miền Nam và Bắc. Cho đến này nay, đảng CSVN tự đặt cho ḿnh nhiệm vụ vĩnh viễn độc tôn lănh đạo đất nước, không bao giờ chấp nhận các đảng phái khác. V́ vậy mà "cuộc chính biến tháng 8" không có tính đại đoàn kết dân tộc.

Xét thêm về tính độc lập, nền độc lập biểu kiến đạt được vào tháng 8, 1945 cũng không phải là công lao của một ḿnh Mặt Trận Việt Minh, tức là đảng CSĐD, v́:

- Sự thật 7: Chính vua Bảo Đại tuyên bố vô hiệu hóa Hiệp Ước 1884 và tuyên bố Việt Nam Độc vào ngày 17-8 tại Thuận Hóa, sau đó ông thoái vị để "được làm dân một nước độc lập". Nói cách khác, nếu Việt Minh không "cướp chính quyền" vào ngày 19-8 th́ đất nước cũng sẽ tiến đến t́nh trạng độc lập và dân chủ, theo như lời tuyên bố của Bảo Đại, sẵn sàng nhường quyền điều hành đất nước lại cho một chính phủ "cộng ḥa dân chủ".

- Sự thật 8: Ngày 2-9-1945, lúc ông Hồ Chí Minh đọc "Tuyên Ngôn Độc Lập" tại Hà Nội, đất nước vẫn chưa thực sự được "độc lập". Quân đội Nhật chưa bị giải giới. Miền Nam vẫn c̣n chính phủ riêng và lại lệ thuộc vào Pháp ngay sau khi Anh và Pháp giải giới Nhật.

- Sự thật 9: Trên phương diện "công pháp quốc tế", nền độc lập của toàn đất nước chỉ chính thức đạt được vào năm 1948, với sự ra đời của "Quốc Gia Việt Nam" có "Quốc Trưởng" và "chính phủ". Dù vậy, Việt Nam chỉ được thực sự "độc lập" sau khi Pháp rút quân về theo Hiệp Định Genève năm 1954.

Mặt khác, ư niệm "cách mạng" cũng không nhất thiết chỉ cô đọng vào "mùa thu" hay "tháng Tám" năm 1945 như các sử gia cộng sản vẫn vinh danh là "Cách Mạng Mùa Thu" hay "Cách Mạng Tháng Tám", v́:

- Sự thật 10: Tinh thần "cách mạng" đă được phát khởi đầu tiên bởi VNQDĐ năm 1928 với chủ trương "do dân, bởi dân và v́ dân", chứ không phải do đảng cộng sản Đệ Tam Quốc Tế phát khởi. Tinh thần "cách mạng" được thể hiện qua sự vị quốc vong thân của đảng trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học vào năm 1930, và được tiếp tục nuôi dưỡng bởi nhiều tổ chức kháng Pháp trong suốt các thập niên 1930 và 1940.

- Sự thật 11: Khí thế "cách mạng" đă bị đảng CSĐD triệt tiêu. Chỉ vài tháng sau, người Pháp được sự đồng thuận của Đồng Minh, trở lại Việt Nam, đổ quân tái chiếm miền Nam, rồi tiến ra Trung và Bắc Kỳ. Trước sức mạnh quân sự của Pháp, ông Hồ Chí Minh đă liên lạc và xin kư thỏa ước với Pháp, chấp nhận đứng trong "Liên Hiệp Pháp", trái hẳn với lời tuyên thệ của ông trong ngày 2-9, rằng ông sẽ "không bao giờ thương thuyết hay hợp tác với Pháp". Đây là một trong những bằng chứng rằng những người cộng sản luôn luôn đặt quyền lợi của đảng lên trên danh dự của dân tộc.

IV. KẾT LUẬN

   

trang trước

trở lại