Quốc Kỳ Việt Nam: Nguồn Gốc và Lẽ Chính Thống

 

Kỹ Sư Nguyễn Đ́nh Sài, SQHQ K16 Nha Trang  


   II. NHỮNG LÁ QUỐC KỲ TỪ ĐẦU THẾ KỶ 19 ĐẾN NAY

Thế hệ trẻ Việt Nam ngày hôm nay muốn t́m hiểu về lá quốc kỳ chính thống của dân tộc Việt Nam trong hơn 100 năm qua đă và đang bối rối v́ sự tương phản cũng như nguồn gốc và ư nghĩa của mỗi lá cờ. V́ vậy, đi t́m nguyên khởi của mỗi lá cờ đó là t́m về lịch sử biến thiên của dân tộc. Sau đây là tóm lược bối cảnh lịch sử cấu thành và ư nghĩa của mỗi lá cờ được t́m thấy trong một hay nhiều tài liệu trích dẫn ở cuối bài.

  1. Long Tinh Kỳ: Quốc Kỳ nguyên thủy của triều đ́nh Nhà Nguyễn

Đối chiếu với các tài liệu được tham khảo th́ lá quốc kỳ đầu tiên trong thời nhà Nguyễn đă được đặt tên bằng tiếng Hán là "Long Tinh Kỳ". (Ghi chú cho tuổi trẻ Việt Nam: Ư nghĩa của các chữ Hán như sau: Kỳ là cờ. Long là Rồng, biểu tượng cho hoàng đế, có màu vàng. Râu tua màu xanh dương chung quanh tượng trưng cho Tiên và cũng là màu đại dương, nơi Rồng cư ngụ. Tinh có nghĩa là ngôi sao trên trời, mà cũng có nghĩa là màu đỏ. Màu đỏ c̣n biểu tượng cho phương Nam và cho ḷng nhiệt thành. Long Tinh Kỳ là Cờ Rồng có chấm Đỏ viền tua xanh, biểu hiệu cho một dân tộc có nguồn gốc Rồng Tiên ở phương Nam vùng nhiệt đới.) 












(Long Tinh Kỳ: 1802-1855. Nền vàng biểu hiệu Hoàng Đế và sắc tộc dân Việt. Chấm đỏ biểu hiệu phương Nam. Tua xanh biểu hiệu đại dương, vẫy rồng).

  Cờ Long Tinh đă có từ thời vua Gia Long khi mới thống nhất sơn hà và lên ngôi hoàng đế vào năm 1802. Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn chưa có bang giao quốc tế với các nước Tây phương, nên Long Tinh Kỳ được xem là "Đế Kỳ". Đế kỳ khác quốc kỳ ở chỗ:

- Đế kỳ là cờ của nhà vua, vua ở đâu th́ đế kỳ treo hay dựng nơi đó.

- Quốc kỳ là biểu tượng của quốc gia, treo tại các nơi có cơ quan công quyền chứ không chỉ ở chốn hoàng triều.

Năm 1863, sau khi Kinh Lược Sứ Phan Thanh Giản thụ mệnh vua Tự Đức đi sứ sang Pháp trở về, thấy Pháp chào quốc kỳ Tam Tài trong các buổi lễ, nên ư niệm dùng Long Tinh Kỳ làm "quốc kỳ" mới khởi đầu.

Năm 1885, trước âm mưu đô hộ của thực dân Pháp đă lộ liễu quá rơ, triều đ́nh nhà Nguyễn không c̣n chịu nổi áp lực ngoại xâm, Phụ Chính Đại Thần Tôn Thất Thuyết ra lệnh tấn công quân Pháp. Cuộc tấn công bị thất bại, thủ đô Huế bị thất thủ. Ông pḥ vua Hàm Nghi trốn chạy khỏi hoàng thành, ra Quảng Trị, rồi sau đó lên căn cứ Tân Sở, miền núi Trường Sơn, giáp biên giới Lào-Việt, để tiếp tục chống Pháp. Triều đ́nh mang theo lá cờ Long Tinh để thể hiện sự hiện diện của vua Hàm Nghi và cũng để hiệu triệu quốc dân hưởng ứng phong trào "Cần Vương" (Cần Vương nghĩa là cứu viện vua). Nhiều nhà ái quốc đă hưởng ứng phong trào Cần Vương, và nổi lên chống Pháp khắp nơi từ nam chí bắc, mà lịch sử cận đại c̣n ghi rơ như các cuộc khởi nghĩa của các anh hùng Phan Đ́nh Phùng, Hoàng Hoa Thám, Cao Thắng, Nguyễn Thiện Thuật, v.v... Họ dựng lên những lá "Long Tinh Kỳ" tại bộ chỉ huy cũng như tiền đồn, để xác quyết sự hưởng ứng của họ đối với hịch Cần Vương. (Ghi chú Việt Sử Toàn Thư Trang 467: "Từ Trung ra Bắc, cờ khởi nghĩa bay khắp nơi"). Chính v́ vậy mà sử sách thế giới mới ghi nhận sự hiện hữu của lá Cờ Long Tinh vào năm 1885, mặc dù nó đă được dùng làm đế kỳ từ đầu thế kỷ 19.

  2. Đại Nam Quốc Kỳ

Nước Việt ta từ thời lập quốc đến đầu triều Nguyễn đă có nhiều quốc hiệu. Từ năm 1010, vua Lư Thái Tổ khai sáng triều đại nhà Lư th́ đổi quốc hiệu Đại Cồ Việt thời Đinh Bộ Lĩnh thành ra Đại Việt. Quốc hiệu này vẫn được giữ nguyên qua nhiều triều đại Trần, Hồ, Lê, cho đến cuối triều đại Tây Sơn vào đầu thế kỷ 19. Tuy vậy, các triều đại Trung Hoa không hề chấp nhận quốc hiệu Đại Việt mà vẫn gọi nước ta là "An Nam", ngụ ư một nước Nam được trị cho yên và tùng phục người Hán, không c̣n quật cường nữa. Khi vua Gia Long lên ngôi vào năm 1802, nhà vua sai sứ sang Tàu cầu phong và xin lấy quốc hiệu là Nam Việt. Tuy nhiên, Thanh triều nghĩ đến tên Nam Việt vốn là quốc hiệu từ thời vua Triệu Đà vào năm 207 trước Công Nguyên (BC). Lúc bấy giờ, Nam Việt c̣n bao gồm hai tỉnh lớn Quảng Đông, Quảng Tây, và đảo Hải Nam. Sau Công Nguyên (AD) th́ các đất ấy đă bị người Hán chiếm mất. Đến thế kỷ 18, Quang Trung Hoàng Đế, một anh hùng bách chiến bách thắng của dân tộc Việt đă định đ̣i nhà Thanh trả lại các vùng này, song chưa thành công th́ ông đă tạ thế lúc mới 40 tuổi. Khi vua Gia Long thống nhất sơn hà, muốn đổi quốc hiệu thành Nam Việt, Thanh triều nhớ lại lời yêu sách của vua Quang Trung, nên lo ngại và không chấp thuận. Để giữ ḥa khí, Thanh triều mới tráo đổi chữ Việt ra trước chữ Nam để cho khỏi lầm với tên cũ. V́ thế, nước ta có quốc hiệu là Việt Nam kể từ năm 1804. Năm 1820, vua Minh Mạng nối ngôi cha, mở mang bờ cơi rộng lớn về phía tây và phía nam. Minh Mạng cũng sai sứ sang Tàu xin tấn phong và xin đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam, ngụ ư một nước Nam rộng lớn.

Tuy nhiên Thanh triều đă không chính thức chấp thuận cho vua Minh Mạng đổi quốc hiệu mới thành Đại Nam Quốc. Măi đến gần hai thập niên sau, nhân nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng đă quyết định đơn phương đổi tên nước thành Đại Nam và chính thức công bố tên mới vào ngày 15 tháng 2, 1839. Quốc hiệu này đă được dùng trong đời vua Tự Đức và các đời vua kế tiếp. Một số tác phẩm nổi tiếng vào thời đó đă mang tên Đại Nam. Điển h́nh là bộ sách "Đại Nam Thực Lục Chính Biên" và bộ "Đại Nam Nhất Thống Chí" do Quốc Sử Quán triều vua Tự Đức soạn ra, tổng hợp các công tŕnh sử sách từ các đời vua trước.

Trong lúc đó, th́ người Pháp cũng theo sử sách của Tàu, vẫn gọi nước ta là "Annam", và cũng cùng ngụ ư tương tự như người Tàu, để "yên trị" người Việt.

Năm 1885, v́ cờ Long Tinh theo vua Hàm Nghi vào bưng kháng Pháp, nên người Pháp không chấp thuận cho vua Đồng Khánh dùng Long Tinh Kỳ làm quốc kỳ nữa. Triều đ́nh Đồng Khánh phải chế ra lá cờ mới. Lá cờ mới cũng có nền vàng, nhưng màu đỏ th́ gồm hai chữ Hán "Đại Nam" mang tên quốc hiệu nước ta lúc bấy giờ, tức là "Đại Nam Kỳ". Tuy nhiên, những người tinh thông chữ Hán, khi nh́n thoáng qua lá cờ mới đều nhận thấy không hoàn toàn giống các nét chữ "Đại" và "Nam", nên không ai có thể quả quyết rằng lá cờ ấy liên hệ với quốc hiệu Đại Nam.

Sau đây là h́nh lá cờ Đại Nam, được t́m thấy qua tài liệu của người Tây phương:

 
Đại Nam Kỳ (1885-1890): 
* Nền vàng
* Hai chữ Đại Nam màu đỏ & xoay 90o ngược vị trí đối diện

  Chúng ta hăy nh́n lại hai chữ Đại Nam viết bằng Hán tự sau đây:

Đại                                            Nam

Bây giờ hăy thử xoay chiều, chữ Đại xoay 90 độ ngược chiều kim đồng hồ và chữ Nam xoay 90 độ theo chiều kim đồng hồ:

Đại (xoay 90o CCW)                     Nam (xoay 90o CW)

Bây giờ, chúng ta mới nhận thấy hai chữ Đại và Nam xoay chiều theo kiểu trên khá giống lá quốc kỳ nước ta vào năm 1885-1890. Tuy vậy, chữ bên trái trên lá cờ khá giống chữ Đại, trong khi chữ bên phải trên lá cờ không hoàn toàn giống chữ Nam. Nguyên do có thể là v́ người ngoại quốc đă không rành thuật viết chữ Hán, nên đă thiếu sót vài nét khi chuyển thành h́nh vẽ của chữ Nam trên các websites của họ. Cũng có thể đó chỉ là sự cố ư của triều đ́nh Đồng Khánh khi thực hiện lá cờ, v́ vua Đồng Khánh do Pháp đưa lên ngôi, là một ông vua bù nh́n, thể chất yếu đuối, thiếu tinh thần tự chủ, nên không dám làm mất ḷng nhà Thanh cũng như chính phủ bảo hộ Pháp. V́ thế triều đ́nh đành phải xoay đổi đi một chút.

3. Quốc kỳ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ dưới hai triều đại Kháng Pháp 1890 - 1920
(xem tiếp)

 

trang trước

trở lại