VưỢt BiỂn TRẦN NGỌC TOÀN |
Từ
Trại Tù Cải tạo số 3 Tân Kỳ, ở vùng núi
Nghệ Tĩnh, năm 1981, tôi được chuyển
về Nam với gần 300 người cùng số
phận trên một chuyến xe lửa. Ở Trại Tù
Hàm Tân đến ngày 22 tháng 3 năm 1984, tôi được
lệnh thả về nhờ sự xoay sở của gia
đ́nh. Đáng lư, tôi phải chịu thêm “Một
lệnh tập trung cải tạo 3 năm” nữa
mới hy vọng ra khỏi Trại giam theo tiêu chuẩn
của Việt Cộng. Năm 1978, khi c̣n ở Trại
tù ở Hoàng Liên Sơn, trong lá thư đầu tiên
được gởi về cho gia đ́nh, tôi tự
thấy không có ngày về nên đă nhắn với gia
đ́nh t́m cách vượt biên bằng câu: “Hăy đi
khu kinh tế mới với bà chị của tôi”. Trong
khi bà chị đă sang Mỹ từ năm 1969. Sau đó
bẵng đi cả năm sau tôi mới được
tin vợ con tôi đă vượt biên và định cư
tại Virginia, với bà chị của tôi, năm 1979.
Đứa con gái lớn của tôi mới 10 tuổi và
đứa em vừa 5 tuổi.
Tính
ra tôi ở tù Cộng sản gần trọn 9 năm
với 5 năm ngoài Bắc và 4 năm trong Nam. Giấy
Ra Trại buộc tôi phải trở về Đà
Lạt với cha tôi v́ gia đ́nh tôi ở Sài G̣n
đă vượt biên từ năm 1978. Tôi phải quay
về Đà Lạt để thăm gia đ́nh. Ba tôi
xoay sở cho tôi chứng nhận của Công An là tôi
đă rời khỏi nơi địa chỉ này
từ năm 1963 để tôi quay về lại Sài G̣n
t́m cách vượt biên. Tôi chưa có quyền công dân
và c̣n chịu chế độ quản chế của Công
an ít nhất 6 tháng. Hằng ngày, tôi phải mang
cuốn tập giấy 100 trang vào tŕnh diện Công An
khu vực với tường tŕnh đă làm việc ǵ
trong một ngày đó. Anh lái tàu gật gật đầu có vẻ nhận hiểu. Tôi liếc thấy có chiếc hải bàn trước bánh lái. Một người trẻ tuổi ngồi gần có vẻ chủ tàu c̣n ôm trong người một khẩu carbine M1 với băng đạn. Không nói ǵ thêm tôi quay về chỗ của ḿnh. Chỉ trong ṿng chưa tới một giờ sau nghe máy tàu nổ và người thợ máy Nam Dương đă leo trở về tàu buôn. Tự dưng tôi thấy ḷng ḿnh nhẹ nhàng phơ phới. Tàu khởi hành ngay sau đó. Tôi yên chí t́m chỗ nằm. Chẳng thấy ai réo gọi ǵ đến ḿnh. Tôi nghe người ta x́ xào trong kiện hàng của tàu Nam Dương cho xuống ngoài nước uống c̣n có cả thuốc lá Dunhill nữa. Cũng may, tôi c̣n được ông bạn trẻ mới tự xưng là Thiếu Úy Địa Phương Quân, cho 1 chén cơm với cá khô kho mặn và một bát nước lạnh. Thế là tôi ngủ vùi đi sau bao ngày thấp thỏm chờ đợi. Tàu chạy suốt đêm và trọn ngày hôm sau, là ngày thứ 5, cũng chẳng thấy đâu là đất liền. Hỏi ra mới biết có lẽ chủ tàu mua nhầm hải bàn “dỏm” của Chợ Lớn. Sau cùng tôi đề nghị cứ chạy về hướng Nam thế nào cũng đến Nam Dương hay Mă Lai, theo bản đồ trong trí nhớ của tôi. Tất cả nhờ kinh nghiệm và học hỏi từ phong trào Hướng Đạo và chỉ huy đánh trận trong Quân Đội. Đến rạng ngày thứ 6, khi chưa thấy đất liền bỗng có một chiếc tàu đánh cá khá lớn của Nam Dương cặp theo. Chủ ghe Nam Dương nói bằng tiếng Anh khó nghe với đại ư anh ta sẵn sàng kéo tàu về đảo Sian Tan của Nam Dương và xin quyên góp một số tiền Việt Nam của người trên tàu. Hóa ra, theo lệnh của tổ chức Liên hiệp Quốc, tàu đánh cá nào kéo được tàu vượt biên Việt Nam vào bờ sẽ được trọng thưởng. Thế là tàu được kéo măi tới chiều tối mới cập vào cảng của đảo Sian Tan, Nam Dương, trước mũi súng chờ đợi của Quân Đội Nam Dương trên bờ. Dưới ánh đèn pha chiếu sáng, mọi người trên tàu được đi hàng một lên trước họng súng canh gác của Quân Đội Nam Dương. Từ cầu tàu đi bộ về một ngôi trường tiểu học và được chia ra vào hai pḥng học với nam và nữ riêng. Tất cả đều phải lột hết quần áo ra để chịu sự khám xét. Khi đến gần một người ngồi sau một chiếc bàn có vẻ sĩ quan, tôi hỏi:– “Anh là TQLC hả”. Anh ta nh́n tôi từ đầu đến chân rồi hỏi lại:– “Sao anh biết”. Tôi đáp:– “Nếu ở đảo anh không là Hải Quân th́ là TQLC”. Hắn cười và gật đầu. Tôi hỏi tiếp:– “Trong TQLC, anh có biết Trung Tá Herman Mujirun không?”. Anh chợt đứng lên nh́n tôi đầy vẻ ngạc nhiên:– “Sao anh biết”. Tôi đáp:– “Tôi học chung cùng khóa Chỉ Huy và Tham Mưu của TQLC Hoa Kỳ với Trung Tá Herman Mujirun năm 1972 và 1973, tại Quantico, Virginia, Hoa Kỳ”. Anh ta tươi cười và đưa tay bắt tay tôi, nói:– “Tôi là Trung Úy TQLC Nam Dương. Trung tá Herman Mujirun bây giờ là Trung Tướng Tư Lệnh TQLC Nam Dương”.– “Nếu được, anh vui ḷng tin cho ông ấy biết tôi là… TQLC Việt Nam đang lánh nạn CS Việt Nam. Mười năm sau ngày rời căn cứ TQLC Hoa Kỳ tại Quantico, Virginia trở về Việt Nam tôi đă trở thành kẻ chiến bại với gần trọn 9 năm tù đày CS. Người bạn học cùng khóa từ Nam Dương nay đă lên Trung Tướng làm Tư Lệnh TQLC. Dĩ nhiên, tôi không trông đợi ǵ từ ông ta. Nhưng dù sao ông cũng c̣n thân thiết với tôi hơn những người cùng máu mủ Việt Nam theo chủ nghĩa CS. Họ đă thẳng tay trừng trị và tiêu diệt chúng tôi ngay sau ngày lấn chiếm Miền Nam dưới nguồn tài trợ không ngừng của CS Nga và Tàu. Tôi cũng đă làm trọn bổn phận của một chiến binh ǵn giữ Miền Nam. Ngày hôm sau, tôi t́m cách ṃ ra khu chợ nhỏ gần trường học đổi chiếc nhẫn một chỉ vàng may dấu lận trong lưng quân đùi với giá 10 ngàn đồng Nam Dương .Tôi ghé vào trạm bưu điện xin gởi một điện tín sang Mỹ cho gia d́nh. Vài ngày sau tôi cùng người trên tàu được chuyển về đảo Kuku. Trong kế hoạch tập trung người vượt biên, một tuần sau tôi được xuống tàu về đảo Ga-Lăng. Suốt thời gian này tôi chẳng gặp ai quen biết. Chiếc tàu tập trung người tỵ nạn của Nam Dương với độ 300 người đủ hạng tuổi, hướng về Ga-Lăng. Trong suốt chuyến hải tŕnh dài một ngày và đêm, với tâm tư trầm xuống, tôi t́m một góc vắng, nằm suy tưởng lại cả một thời gian dài trong chiến trận và những năm tháng tù đày khổ ải. Từ một Thiếu Úy trẻ xông pha vào lửa đạn cho đến ngày bỗng chốc tất cả sụp đổ xuống khi Dương Văn Minh kêu gọi buông súng vào trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Rồi đến nỗi thất vọng chán chường cùng cực dày ṿ trên chuyến tàu Sông Hương khi bị VC lùa xuống chuyển ra Miền Bắc Việt Nam vào đầu tháng 6 năm 1976. Quê hương yêu dấu một đời chợt xa xôi ngh́n dậm, từ Đà Lạt nơi chôn cắt rún, cho đến Miền Tây bát ngát đồng lúa, Miền Đông chập chùng rừng núi và Miền Trung đầy sỏi đá nghèo nàn. Không biết ngày nào tôi mới nh́n thấy lại quê cha và đất tổ. Sáng ngày hôm sau, bỗng chợt mọt người trên tàu lăng xăng chạy tới lui và xôn xao tiếng gọi réo nhau inh ỏi:– “Tàu vào cảng rồi! Chuẩn bị lên bờ”. Thấy mọi người chen chúc tôi cứ nằm nguyên chờ đợi. Cứ thế mà yên chí chờ đợi v́ bây giờ đă vượt qua hiểm nguy rồi. Chợt một người trẻ chạy lại lay mạnh hai chân tôi và nói:– “Anh T. dậy mau! trưởng phái đoàn Mỹ trên cảng gọi loa xuống muốn gặp anh trước hết đó”. Tôi hơi ngạc nhiên. trưởng phái đoàn Mỹ chờ đón? Tuy vậy tôi cũng từ từ ngồi dậy, tay xách túi nhỏ đi lên từ cuối boong tàu. Tự nhiên, mọi người tự động dạt hết ra hai bên, nhường đường cho tôi đi tới. Nhiều tiếng nhỏ to xầm x́ hai bên tai:– “Ông Tá TQLC này chắc là Sịa (CIA) rồi. Cũng không phải ông Tướng. Làm ǵ mà trưởng phái đoàn Mỹ ra tận cầu Tàu đón như vậy?”. “Chắc cũng thứ dữ à nghen”. Đúng! VC gọi TQLC là bọn “Ác ôn côn đồ Lính Thủy Đánh Bộ” mà. Nhưng tôi không phải là Sịa là cái chắc. Không có người nào sinh đẻ ngoài nước Mỹ làm việc cho CIA được. Chỉ có người làm tay sai thôi. Xong việc là hết. Tôi nghĩ chắc có bàn tay của người bạn cùng học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu của TQLCHK tại Quantico là Trung Tướng Herman Mujirun, dù ông ta không liên lạc hay gặp tôi trong thời gian qua. Khi vượt biên tôi đă chuẩn bị mọi thứ cần thiết. Dù vậy, tôi như người từ cung trăng rơi xuống. Mới ngày nào, lầm lũi đi phá rừng, trên tận Miền Thượng Du Bắc Việt thâm độc, dưới mũi súng của bộ đội VC. Tưởng ḿnh sẽ chết lần hồi trong đói khát và bệnh hoạn. Không c̣n mong ǵ ngày về. Chính nhờ bọn Tàu muốn “dạy cho VC một bài học” bằng cuộc tấn kích năm 1979, tù cải tạo mới được lần chuyển về Nam. Nếu không, chỉ vài năm sau sẽ không c̣n một ai sống sót nổi. Mới ngày nào đây, mỗi sáng c̣n tay cầm quyển tập giấy 100 trang đi tŕnh diện Công An Phường, chịu mọi lời hoạch họe v́ mang tội danh Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 Lính Thủy Đánh Bộ. Bây giờ tôi đang thảnh thơi đi lên vùng đất của Tự Do và Nhân Phẩm. Trưởng Phái Đoàn Mỹ hơi nhỏ con nhưng trông có vẻ đầy tự tin khi ông ta bước tới đưa tay bắt tay tôi.– “Mừng ông đến vùng tự do. Tôi là Đại Úy Hải Quân Alan Barr, Trưởng Phái Đoàn Mỹ của Liên Hiệp Quốc tại Ga-Lăng”.– “Cám ơn Đại Úy. Tôi là TNT TQLCVN số quân 60A/402. 189 nguyên là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4 TQLC Việt Nam”.– “Chúng tôi được giải quyết nhanh hồ sơ của Trung Tá để ông sẽ lên chuyến bay đi Mỹ sớm nhất. Mời ông lên xe”. Đại Úy HQ Alan leo lên ghế tài xế và chỉ tôi ngồi vào ghế trưởng xa, trước bao nhiêu cặp mắt vừa thèm muốn vừa nể phục của mọi người đang chen nhau lên bờ… Có lẽ, mười năm đen tối của đời tôi đă trôi qua. Alan cũng không quên ra hiệu cho một cựu sĩ quan trẻ, làm thông dịch viên, quay về trại:– “Tôi không cần anh nữa. Sáng mai gặp lại.”. Bước vào một căn pḥng làm việc nhỏ, trong khu trại Ga-Lăng 1, Alan cúi xuống chiếc tủ lạnh nhỏ lấy ra một lon Coke ch́a ra mời tôi. Sau gần 10 năm đói khát, một hớp nước Coca rơi xuống cổ tưởng như uống Nước Tiên, sướng đă cả người. Alan ngồi tươi tỉnh sau bàn làm việc với một hồ sơ ngay trước mặt.– “Anh học Trường Cao đẳng Chỉ Huy và Tham Mưu TQLCHK năm nào? Ai là Chỉ Huy Trưởng? Tướng Tư Lệnh TQLCHK lúc đó là ai? Anh trở về Việt Nam năm nào? Anh tốt nghiệp Khóa mấy của Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam?…….”.– “Trước hết tôi xin nhắc lại số quân của tôi cho anh kiểm nghiệm. Sau đây là những câu trả lời……”. Chỉ trong ṿng 15 phút sau, đại úy HQ Alan Barr tươi cười đẩy hồ sơ trước mặt anh về phía tôi. “Cho anh xem qua hồ sơ của anh từ Lầu Năm Góc chuyển tới”. Tôi liếc mắt đọc qua và không khỏi sửng sốt khi thấy đầy đủ như bản Tướng Mạo Quân Vụ của tôi trong Pḥng Tổng Quản Trị Sư Đoàn ngày xưa, với cả h́nh ảnh mới nhất chụp tại Trường CHTM của TQLCHK tại Quantico, Virginia, năm 1972-73. Trong ấy, c̣n có cả h́nh ảnh vợ con tôi với địa chỉ tại Falls Church, Virginia. Thế là tôi đă qua cuộc phỏng vấn và được biết tôi sẽ được đưa đi bệnh xá lập thủ tục khám sức khỏe đi Mỹ vào sáng mai. Ngay sau đó, Alan nhờ tôi giúp giải quyết một hồ sơ khó khiến ông ta ngần ngại khi quyết định. Alan nói:– “Có một ông tự xưng là đại tá nhưng lại làm xă trưởng ở Miền Đồng Bằng Sông Cửu Long. Để tôi gọi ông ta lên để anh t́m hiểu xem sao”. Một ông trung niên người Nam da đen màu nắng và rắn chắc bước vào pḥng. Tôi đứng dậy chào và bắt tay ông ta, nói thân thiện:– “Ông trưởng phái đoàn Mỹ này muốn nhờ tôi t́m hiểu về anh để giải quyết hồ sơ cho anh. Nghe nói anh xưng là đại tá mà lại làm xă trưởng. Tôi thuộc binh chủng TQLC nên không biết nhiều bên Bộ Binh nhưng cấp bậc đại tá chắc tôi cũng biết. Có ǵ anh có nói thật cho tôi biết may ra tôi giúp được cho anh”.– “Thú thiệt tôi là xă trưởng Xă… Và cấp bậc đại tá của Ḥa Hảo.”. Tôi à lên một tiếng mừng rỡ và hiểu liền. Tôi quay sang giải thích bằng Anh ngữ cho Alan. Chàng ta cười nói:– “Đúng rồi Ḥa Hảo. Thay v́ làm tỉnh trưởng mà làm xă trưởng thôi.”. Tôi được xếp đặt ở tạm trong một dăy nhà dài với ván gỗ và mái lợp tôn trong khu tỵ nạn Ga-Lăng 1, với khoảng 30 người đủ hạng tuổi. Khi rảnh rỗi, tôi một ḿnh đi lang thang trong khu tạm cư, thăm những ngôi mộ của người vượt biên. Một năm trước đây, người Việt gốc Hoa được VC cho “Đi bán chính thức” đă mang theo cả gia đ́nh và tài sản dấu diếm được. Trên chuyến tàu 600 người ấy chỉ có độ 10 người vốn là Công chức và Quân nhân của Miền Nam. Tôi được gặp lại một số các anh em chiến hữu TQLC đă đến đây gồm hầu hết người trẻ và cấp bậc thấp nhưng họ hết ḷng và tận tụy giúp đỡ lẫn nhau tại trại tỵ nạn. Trước ngày rời đảo, tôi gặp người khóa đàn em Vơ Bị cùng phục vụ trong TQLC đă vượt biên lần thứ 14 mới thoát. Trước đó, trong chuyến đi thứ 13 anh đă bị ch́m ghe ngoài khơi Vũng Tàu. Vợ con anh lần hồi chết trôi trong tầm tay của anh. Tôi thật hết sức may mắn sau những gian lao khổ ải gần 10 năm. Trại tỵ nạn ở Ga-Lăng như một xă hội thu hẹp của Việt Nam Công Ḥa, ngay trên lănh thổ của Nam Dương. Trong số hàng triệu người bất chấp mạng sống hiểm nguy vượt thoát khỏi gông cùm CS, chắc có ít nhất một phân nửa không đến bên bờ tự do, mà bị hải tặc Thái Lan cướp của chém giết hoặc đói khát, ch́m ghe, lạc hướng, đói khát, rồi bị vùi thân xuống biển cả. Mặc cho thế giới tự do đau xót, bọn VC vẫn chửi rủa dù là cùng màu da xác thịt Việt Nam. Tôi lưu lại đảo Ga-Lăng chỉ trong ṿng 11 ngày và được chỉ định làm Trưởng Phái Đoàn Tỵ Nạn sang Mỹ vào chuyến bay ngày 12 tháng 6 năm 1984, từ Singapore……..
Trần Ngọc Toàn |