Tây
Vực là đất Ba Tư, Chiêu Vũ Cửu Tính,
Thổ Hỏa La thời Đường. Đầu
thời Đường, Đại Thực
diệt Ba Tư, tù trưởng của Ba Tư là
A Lạt Tỉ Nhân nhận lễ giáo của Mô Hăn
Mặc Đức [đạo Hồi], tự xưng
là Cáp Lí Phát, đô ở Báo Đạt, ở
đất phía tây của Ba Tư. Đến
đất phía đông của Ba Tư th́ không
phải là đất của Cáp Lí Phát. Có người
nói Báo Đạt là Ba Tư, không phải
vậy. A Lạt Tỉ Nhân là người du
mục ở Tây Lí Á, người Tây Lí Á xưng
ông ta là Đại Ức, người Ba Tư xưng
ông ta là Đại Hi, Hoàng hậu của ông ta là
A Muội Ni Á Nhân, người Đột Nhĩ Cơ
Tư Đan xưng ông ta là Tháp Khởi Khắc,
đều cùng âm với Đại Thực. Tên
của Đại Thực, có lẽ do đó mà có.
Đại
Thực đă diệt Ba Tư, mở thêm đất
đến phía đông, chia ra đặt tù trưởng
để cai trị các đất ấy. Chưa
đến ba trăm năm, thế lực mỗi
ngày suy yếu, các tù trưởng th́ kẻ
mạnh chiếm kẻ yếu, lập bang mở cơi,
các họ thường thay đổi, là Tha
Hải Nhĩ, là Tát Pháp Nhĩ, là Tát Man, là Tái
Bố Khắc Đích Cân, là Bố Diệp, là
Tắc Nhi Trụ Khắc, tuy nhận chiếu
lệnh của Cáp Lí Phát, nhưng là tên hăo ràng
buộc lỏng lẻo, chỉ có cờ, chiều
của Hoàng đế và đúc tiền đều
dùng tên của Cáp Lí Phát, chính sự của nước
ra lệnh th́ không tham dự.
Tắc
Nhi Trụ Khắc, là tù trưởng của người
Ô Cổ Tư, cũng viết là Ô Tư, lại
viết là Cổ Tư, sống ở Tích Nhĩ Hà
và vùng Hàm Hải, Lí Hải. Năm Trung Diệp
thời Bắc Tống, chiếm đất tự
lập. Cháu của Tắc Nhi Trụ Khắc
thống lĩnh bộ tộc của ḿnh diệt
Bố Diệt, chiếm hết đất ấy,
phía tây đến Địa Trung Hải.
Vương
đời sau là Mă Kí Khắc Sa, có nô lệ là Nô
Thế Đích Cân, nắm giữ quân cận
vệ tả, hữu, rất được Nhà
vua yêu thích, phong thêm Phó tịch, làm tù trưởng
của Hóa Lặc Tự Di. Con của ông ta là
Khố Thoát Bạt Đinh Mô Hăn Mặc Đức,
thừa lúc Tắc Nhi Trụ Khắc suy yếu, các
tù trưởng chia đất, tự làm Vương,
cũng tiếng xưng là Hóa Lặc Tự Di Sa.
Sa là tiếng xuăng của tù trưởng,
Khả Hăn trở xuống của người
Đột Quyết, Hồi Hột gọi là
Thiết, là Sát, Tiếm gọi là Tát, đều
là tên riêng của tù trưởng, tướng, là
Sa vậy. Gia Luật Đại Thạch của nước
Liêu đến phía tây, đánh bại quân
của Tắc Nhi Trụ Khắc, lại sai Tướng
đánh Hóa Lặc Tự Di. Lúc ấy Khố Thoát
Bạt Đinh đă chết, con của ông ta là A
Thiết Tư thua trận bị bắt làm tù
binh, thề xưng thần với Tây Liêu [nhà Liêu
bấy giờ tan ră chạy đến phía tây,
lập nên Tây Liêu], hằng năm cống phương
vật, mới được trở về. Con của A Thiết Tư là Y Nhi A
Tư Lan. Con của Y Nhi A Tư Lan là Tháp Khách Thi,
vào năm Thiệu Hi thứ năm thời Nam
Tống, diệt Tắc Nhi Trụ Khắc,
giết Vương của nước ấy là Thác
Cổ Lạc Nhĩ, nhận tước phong
của Lan Báo Đạt Cáp Lí Phát Na Tích Nhĩ,
đó là Hóa Lặc Tự Di Vương, vốn là
ông ta lấy tên của bộ lạc của ḿnh
làm tên, để phân biệt với Tắc Nhi
Trụ Khắc.
Năm Khánh Nguyên thứ sáu, Tháp
Khách Thi chết, con là A Lạp Ai Đinh Mô Hăn
Mặc Đức nối nghiệp, lại hợp
lại đất của các bộ lạc Ba Nhi Nhĩ,
Hải Lạp Thoát, Mă Tam Đức Lan, Khởi
Nhi Mạn, đánh bại Ḱ Bộc Sát Khắc.
Tự nói là đất rộng quân mạnh. Nước
này theo lễ giáo Mô Hăn Mặc Đức, nhưng
Tây Liêu theo lễ giáo của họ Thích [đạo
Phật], cho là phục thuộc lễ giáo khác là
sự nhục nhă lớn. Thời này, tù trưởng
của bộ lạc Tát Mă Nhĩ Can là Ngạc Tư
Măn cũng làm phản lại Tây Liêu. Tây Liêu sái
sứ giả đến Hóa Lặc Tự Di,
việc cũ, sứ gủa ngồi ở bên Vương;
Vương làm nhục sứ giả, sứ
giả giận, liền giết sứ giả.
Đem binh đánh Tây Liêu, quân thua, Vương cùng
Đại tướng của ḿnh đều
bị bắt, Vương bèn giả làm nô lệ
của Đại tướng mới trốn thoát
được. Nhưng trong cơi Hóa Lặc Tự
Di đồn thổi là Vương đă
chết, em của Vương là A Lập Hi Nhĩ
cùng chú, bác của ḿnh muốn chia nước
tự lập. Vương trở về, loạn
mới yên. Năm sau, lại cùng Ngạc Tư Măn
hợp binh đánh Tây Liêu, đánh bại quân Liêu,
thắng trận trở về. Đem con gái
gả cho Ngạc Tư Măn. Rồi Tây Liêu đến
Trị Quan, sai quân đánh Liêu. Chưa mấy lâu,
Ngạc Tư Măn cùng sứ giả không hợp
nhau, giết sứ giả. A Lạp Ai Đinh đem
binh đánh úp, phá bộ lạc Tát Mă Nhĩ Can,
Ngạc Tư Măn đem đao buộc ở
cổ, lấy vải che mặt, để xin hàng.
Con gái v́ Vương lấy Ngạc Tư Măn
lấy vợ của Tây Liêu, giận chồng yêu
Lễ Bất Tương, nên xin cha giết đi.
Do đó đều có được đất Tát
Mă Nhĩ Can, Bố Hà Nhĩ, lập đô
mới ở Tát Mă Nhĩ Can, xưng thành Ô Nhĩ
Kiện Xích của Hóa Lặc Tự Di là Cựu
Đô.
Cổ Xuất Lỗ Khắc
của bộ lạc Năi Man chiếm ngôi vị
của họ Trực Cổ Lỗ ở Tây Liêu,
A Lạp Ai Đinh giúp, cho nên phạm vào đấy
Nhĩ Cơ Tư Đam, hướng về Tây Liêu,
cũng quay về với Hóa Lặc Tự Di. Đất
phía đông nam của nước này có nước
Quách Nhĩ, tù trưởng là Hi Cáp Bát Ai Đinh,
cùng A Lạp Ai Đinh đánh nhau, bị thua
chết. Cháu con của chú là Mă Hách Mô Đặc
nối nghiệp lập bảy năm, bị người
trong nước giết, có người nói là A
Lạp Ai Đinh sai người hành thích giết
ông ta. A Lập Hi Nhĩ lúc trước đồn
thổi anh đă chết, chia nước tự
lập và nghi ngờ, tránh đến thành Phi
Lạc Tư Cố Đô của nước Quách
Nhĩ. Đến đây, xin với anh, muốn
được ngôi vị của Mă Hách Mô Đặc.
A Lạp
Ai Đinh sai sứ giả đến tặng mũ
áo, thừa lúc ông ta đón nhận, xông tới
giết đi, rồi chiếm lấy đất
của nước Quách Nhĩ. Nước này phía
đông bắc đến sông Tích Nhĩ, phía
đông nam đến sông Ấn Độ, phía
bắc đến Hàm Hải, Lí Hải, phía tây
bắc đến A Đặc Nhĩ Bội Chiêm,
phía tây gần Báo Đạt, phía nam kề
biển Ấn Độ, bao trùm cả đất
Ba Tư, Chiêu Vũ Cửu Tính, Thổ Hỏa La
ngày trước, không lấy tên, noi theo tên cũ
của thời Hán, xưng là Tây Vực.
Tây
Vực Vương sau khi đă diệt nước
Quách Nhĩ, giảm thuộc địa của ḿnh
gọi là Ca Tự Ni, tra xét văn thư bắt
lấy sách của Cáp Lí Phát Na Tích Nhĩ và Quách
Nhĩ, cáo nói là v́ chí của người Hóa
Lặc Tự Di ở Nang Hoạt Độ
Quyển, nên đề pḥng, mưu tính đến
Tây Liêu, năm bắc hợp đánh, Ma Khả
được chí. Lúc đầu biết trước
Hi Cáp Bạt Ai Đinh dấy binh, lại có Cáp Lí
Phát xúi dục, giận lắm. Sai sứ giả báo
cho Báo Đạt, muốn như việc cũ
ở Tắc Nhi Trụ Khắc, sai quan lại
đến thống trị, chú ư lấy giáo
sự thuộc Cáp Lí Phát, Ḱ Đảo Văn Tăng
Dĩ, đều phong là Tô Nhĩ Than. Tô Nhĩ
Than g̣n gọi là Hoàng đế, thứ là là Sa,
Hăn, Mă Lí Khắc. Na Tích Nhĩ không cgo phép.
Vương
bèn tụ tập giáo sĩ, kể tội Na Tích
Nhĩ không mở rộng giáo hóa, A Bạt Tư
Thực của Báo Đạt đoạt ngôi
vị của Hốt Tân, nay nên bỏ Na Tích Nhĩ,
lập A Lí Hậu làm Cáp Lí Phát. Phần
nhiều giáo sĩ nói là được. Rồi
dấy binh trước tiên dẹp loạn ở
Nghĩa Lạp Khắc, đánh bại quân
của Pháp Nhi Tư, bắt tù trưởng
của nước ấy là Sa Đặc A Tháp
Tất, cắt đất chuyển tiền mà sau
thua. Bộ tù của A Đặc Nhĩ Bộ Chiêm
là Ngạc Tư Bá Khắc thua chạy, lại
đến xin theo, rồi đến đánh Báo
Đạt. Giữa đường gặp mưa
tuyết lớn, quân mă ngă nhào, quân tiên phong
ở giữa núi Khố Nhi Thắc bị người
địa phương đánh, một đội
quân chết hết. Bèn dẫn quân về, đến
Nghĩa Lạp Khắc, chia đất ra phong cho các
con. Lấy đất Nghĩa Lạp Khắc ban
cho Ốc Khẳng Ai Đinh, lấy đất
Khởi Nhi Mạn, Khắc Xích, Mai Khắc Lam ban
cho Cát Á Đại Đinh, lấy đất Ca
Tự Nhi, Bát Mê Yêm, Ba Tư Thắc, Quách Nhĩ
ban cho Trát Lạt Lặc Đinh, lấy đất
Ngạc Tư Lạp Khắc Sa làm đất
của Vương Mẫu là Thổ Nhi Kham Tư
Đôn, ban cho ba bộ Hóa Lặc Tự Di, Ô
Lạp Thương, Mă Tam Đức Lan. Người
trong nước đều chê bai việc riêng này.
Vương
có binh bốn mươi vạn người, đều
là người Khang Lí và Đột Quyết, cùng
người trong nước không ḥa thuận.
Thổ Nhi Kham Đôn là con gái của bộ tù
Cần Khắc Thạch của bộ lạc Khang
Lí Ba Nha Ô Thoát, người Khang Lí phần
nhiều đến Tây Vực làm quân sĩ, dănh
mănh khi đánh trận, Vương kính trọng
bọn họ, thường có công. Cho nên tướng
của người Khang Lí phần nhiều ngang bướng,
v́ vậy quyền lực của Thổ Nhi Kham
Đôn cũng ngang hàng với con của ḿnh. Nước
tuy lớn, nhưng ḷng người trên, dưới
không tin theo.
Trước
là, Thái Tổ [Hăn Thành Cát Tư ] đánh nước
Kim, làm cho nghiêng nước ở xa, chiếm Năi
Man, Miệt Nhi Khất được dễ dàng,
lại đốt thành tro tàn, lửa cháy gần
xa. Năm thứ mười một thời Thái
Tổ, tự ḿnh dẫn binh trở về phía
bắc, lần lượt ra lệnh đánh
dẹp Năi Man, Miệt Nhi Khất, dẹp yên
Ngốc Mă Đặc, tự ḿnh đánh Tây
Hạ, chiếm nước này, sai Triết
Biệt đánh Cổ Xuất Lỗ Khắc, trong
cơi Tây Liêu đều dẹp yên. Do đó, phía
đông chỉ có Mông Cổ, phía tây chỉ có Hóa
Lặc Tự Di, hai nước lớn đất
đai tiếp nhau, cho nên quân chinh phạt phía tây
nổi lên.
Lúc Tây
Vực Vương từ Báo Đạt trở
về, đă đặt đất phong cho các con,
rồi đến Bố Cáp Nhĩ. Bấy
giờ, đất Tây Liêu ở phía tây bắc
của Thiên Sơn [tức là Hi Mă Lạp Sơn]
đă nhập vào Mông Cổ, có ba người buôn
bán ở Tây Vực tự đi về phía đông,
đem lạc đà, lông cừu, xạ hương,
đồ bạc, đồ ngọc cho Thái
Tổ, kể với Thái Tổ, nói: “Ta biết
qúy quốc là nước lớn, Quân cai trị nước
tài năng đến biên giới xa, ta yêu thích Quân,
giống như yêu con của ḿnh, Quân cũng nên
biết ta đă dẹp yên người Nữ
Trực [bộ tộc Nữ Chân chạy về phía
tây], vỗ về các bộ lạc. Binh của nước
ta như kho khí giới, tiền của như hang
vàng, ta sao phải chiếm đất của người
khác! Muốn cùng Quân giao hảo, qua lại mua bán,
giữ đất đai”. Liền buổi đêm,
Vương gọi ba người đến,
một trong đó là Mă Hắc Ma Đặc vào
gặp, nói: “Ngươi là dân của ta, nên nói
thật. Nghe tin nước đó chinh phục
họ Đại Hạ, phải không?”. Nhân
đó mở hộp đựng ngọc châu ban cho
ông ta. Mă Hắc Ma Đặc nói là thật. Vương
lại nói: “Hăn của Mông Cổ là người
hạng nào, lại dám xem ta như con! Binh của
ngươi kể ra có bấy nhiêu?”. Mă Hắc
Ma Đặc thấy Vương có ư giận,
lại nói: “Binh của nước ấy tuy
đông, nhưng cùng Tô Nhĩ Than chống nhau, như
ánh đèn so với anh mặt trời vậy”. Vương
thích ư, ra lệnh đến báo theo hẹn.
Chưa
bao lâu, lại có người buôn bán ở Tây
Vực từ phía đông trở về, Thái
Tổ ra lệnh cho thân vương, đưa
tiền, sai người theo họ đi về phía
tây mua đồ vật của Tây Vực, đông
hơn bốn trăm người, đềulà người
Úy Ngột. Đi đến thành Ngoa Thoát Lạt
Nhi, tù trưởng của thành là Y Na Nhi Chỉ
Khắc là em của Thổ Nhi Khâm Cáp Đôn,
bắt hết bọn họ, lấy người Mông
Cổ sai trở về báo cho Vuơng. Vương
ra lệnh giết hết, chỉ có một người
trốn về được.
Trước
đây, nước Báo Đạt gặp nạn
binh, Cáp Lí Phát ư muốn lại báo, phá vỡ,
chia nước, không thể mưu tính. Nghe tin Mông
Cổ lớn mạnh, bèn sai sứ giả đến,
bàn chinh phạt phía tây. Nhưng Thái Tổ
mới sửa việc giao hảo với nước
ngoài, không muốn dùng binh. Lại nghe người
trốn chạy trở về báo, cả giận,
cởi dải mũ, quỳ vái tế trời,
thề sẽ rửa hận. Lúc ấy tai hoạ
từ Cổ Xuất Lỗ Khắc vẫn chưa
yên, bèn trước tiên sai người Tây
Vực là Ba Hợp Lạt làm sứ giả, cùng
quan lại người Mông Cổ đến trách,
nói: “Trước tiên cho phép buôn bán với nhau,
sao lại làm trái lời ước? Nếu đây
là việc làm của tù trưởng của thành
Ngoa Thoát Lạt Nhi, không phải là ư của Vương,
xin giết ông ta, lấy lại hàng hóa. Nếu không
th́ đem binh gặp nhau”. Vương giết
chết Ba Hợp Lạt, cắt râu tóc của quân
lại Mông Cổ, trả về để làm
nhục Mông Cổ, tự tụ tập quân sĩ
ở Tát Mă Nhĩ Can. Đến phía bắc sông
Tích Nhĩ, người của bộ tộc
Miệt Nhi Khất từ Khang Lí chạy vào trong cơi.
Vương gấp theo đường Bố Cáp
Nhĩ đến thành Chiên Đích, lại đi
lên phía bắc đến giữa hai sông Hải Lí,
Cáp Mê Tŕ, thấy người Miệt Nhi Khất
bị giết bày la liệt trên đường,
một người c̣n chưa chết. Hỏi người
đó, th́ nói: “Quân Mông Cổ giết bọn ta
rồi đi về phía đông, vừa đi
đi chưa xa”. Đem quân đuổi theo, qua
một ngày đuổi đến. Tướng Mông
Cổ sai sứ giả đến nói: “Ta có thù
hận Miệt Nhi Khất, cùng nước khác không
có gây hấn. Lúc đem quân đi nhận
lệnh của Chủ là nếu gặp người
Hoá Lặc Tự Di, phải đỗi đăi như
bạn bè. Nay xin chia vật chiếm được
để thưởng cho quân sĩ”. Vương
coi thường quân Mông Cổ ít, bèn nói: “Ngươi
tuy không thù hận ta, Thượng Đế ra
lệnh ta thù hận ngươi”. Rồi đánh.
Quân Mông Cổ đánh bại cánh quân phía trái
của Vương, đánh đến cánh quân
ở giữa. Trát Lạt Lặc Đinh đem cánh
quân phía trái đánh bại quân Mông Cổ, đến
giúp cánh quân ở giữa. Đến đêm,
bắt đầu ngừng đánh, được
mất như nhau. Quân Mông Cổ đốt
lửa ở doanh trại, thừa lúc đêm
tối đi nhanh đến. Vương cũng
quay lại Tát Mă Nhĩ Can, biết Mông Cổ là
kẻ địch lớn, có ḷng e sợ, tụ
tập các tướng bàn bạc, cho là đánh
ở chỗ cánh đồng th́ không lợi, không
bằng đến chỗ rănh sâu, luỹ cao mà
tự giữ. Đă bàn bạc xong, bèn đem quân
chia ra giữ các thành
ở sông Tích Nhĩ, A Mẫu.
Năm
thứ mười bốn thời Thái Tổ,
hội binh ở sông Dă Nhi Đích Thạch, đem
theo ngựa, thóc, rơm, thong thả đem quân
đến hẹn, quân chúng kêu lên là sáu mươi
vạn người. Người ḍ xét về báo
nói: “Quân Mông Cổ không thể kể xiết,
đói th́ uống sũa ngựa, dê, khát không
cần phải uống nước, th́ uống máu
ngựa, dê, đi không mang theo lương
thực, vạn người một ḷng, có
tiến lên không có lùi lại”. Vương cũng
sợ hăi, không nghĩ ra kế ǵ. Có người
Tây Vực là Bối Đạc Ai Đinh, v́
cả nhà bị giết, trốn chạy đến
Mông Cổ dâng kế sách, giả làm tướng
của người Khang Lí, bảo Thành Cát Tư
Hăn nói: “Bọn ta hết sức giúp Vương,
là v́ muốn nên nghiệp lớn, v́ việc
Thổ Nhi Kham Cáp Đôn vậy. Nay Vương
lại không hiếu thuận với mẹ ḿnh,
nếu đại quân đến, th́ bọn ta làm
nội ứng”. Cho nên đưa thư cho ông ta,
sai đến gặp Vương. Vương
quả nhiên rất nghi ngờ, rồi không dám
ở trong quân, cho nên chia đất tự
giữ. Quân của Thái Tổ đến sông Tích
Nhĩ, không có người chống giữ.
Mùa thu,
đến gần thành Ngoa Thoát Lạt Nhi, chia quân
làm bốn: Sát Hợp Thai, Oa Khoát Thai dẫn
một đội quân ở lại đánh thành này;
Thuật Xích dẫn một đội quân theo phía
tây bắc đánh thành Chiên Đích; A Lạt
Hắc, Tốc Khách Đồ, Thác Hải dẫn
một đội quân theo phía đông nam đánh
thành Bạch Nột Khắc Đặc, đều
men theo sông Tích Nhĩ; Thái Tổ tự ḿnh cùng
Tha Lôi thống lĩnh đại quân, vượt
qua sông Tích Nhĩ đi nhanh đến Bố Cáp
Nhĩ, để cắt đứt quân cứu
viện của nước ấy. Sát Hợp Thai,
Oa Khoát Thai đến đánh Ngoa Thoát Lạt Nhi,
quân bản bộ của Y Na Nhi Chỉ Khắc có
mấy vạn người, quân bảo vệ
giỏi đầy đủ, Vương chia quân
vạn người, ra lệnh cho Tướng
của ḿnh là Cáp Lạp Trát thống lĩnh
đội quân ấy, giúp bảo vệ thành Ngoa
Thoát Lạt Nhi. Đại quân đánh thành năm
tháng không chiếm đuợc, Cáp Lạp Trát v́
sức lực khổ sở bàn xin hàng. Y Na Nhi
Chỉ Khắc tự biết khó thoát, thề
giữ đến chết. Cáp Lạt Trát nhân
đêm tối đem quân thân cận phá ṿng vây
trốn ra, bị bắt, xin hàng. Nhân đó tra
hỏi việc thật, giả ở trong thành,
kể tội ông ta không trung thành mà giết đi.
Rồi chiếm phía ngoài của thành này. Y Na Nhi
Chỉ Khắc lui về giữ trong thành, một
tháng sau, bắt đầu chiếm được
thành, bỏ vào xe tù đưa đến Tát Mă
Nhĩ Can, đại quân rót bạc vào tai
miệng của ông để rửa thù cũ.
Thuật
Xích dẫn một đội quân trước tiên
đến Tát Cách Nạp Khắc, sai người
Úy Ngột là Cáp Sơn Cáp Xích dụ hàng, bị
giết. Ra sức đánh bảy ngày đêm, phá
thành, bắt tù binh cắt tai, lấy con của Cáp
Sơn Cáp Xích giữ đất này. Lại
chiếm được ba thành Áo Tư Khẩn, Bát
Nhi Chân, Át Thất Na Tư. Tướng giữ thành
Chiên Đích bỏ trốn, dụ hàng, chưa
đến theo mệnh lệnh, binh đă đến,
dựng thang mây để vào, ra lệnh A Lí
Hoả Giả giữ đất này, là một
trong ba người buôn bán ở Tây Vực
vậy. Phía tây cách Hàm Hải hai ngày đường,
có thành Dưỡng Cát Can, cũng chiếm thành này.
Ba tướng
là bọn A Lạt Hắc đến thành Bạch
Nột Khắc Đặc, đánh ba ngày, hạ
thành này. Chia quân Khang Lí cùng dân chúng ở hai nơi,
giết hết quân Khang Lí, bắt thợ mộc,
thợ đá theo quân, đuổi dân chúng, tráng
đinh đến thành Hốt Chiên. Tù trưởng
của thành là Thiếp Mộc Nhi Mă Lí Khắc
giữ băi đất ở giữa sông, tên, đá
không thể bắn đến, cùng thành làm
thế ỷ giốc cứu giúp lẫn nhau, làm
thuyền mười hai chiếc, bọc len bôi bùn
để chống tên lửa, hằng ngày đánh
nhau với quân Mông Cổ. Ba tướng thấy
quân không đủ, xin thêm quân. Quân đến,
sai dân chúng chở đá ở núi, lấp sông
đắp bờ, để đến tới châu.
Thiếp Mộc Nhi Mă Lí Khắc thấy việc
gấp rút, lấy thuyền bảy mươi hai
chiếc chở quân sĩ, đồ khí giới,
lương thực, bỏ thành Bạch Nột
Khắc Đặc. Đại quân trước tiên
lấy dây sắt khóa hai bờ sông. Thiếp
Mộc Nhi Mă Lí Khắc cắt đức dây
sắt, đường bắt đầu thông,
rời thuyền lên bờ, vừa đánh vừa
đi, quân chết, thương gần hết,
chỉ c̣n hơn ba người, đuổi theo
bắn tên trúng mắt, lại thoát được.
Rồi đến Ô Nhĩ Kiện Xích, lấy
binh ở thành này để đến thành Dưỡng
Cát Can, giết quan giữ thành của Thuật Xích,
lại trở về Ô Nhĩ Kiện Xích.
Đại
quân của Thái Tổ trước tiên đến
thành Tái Nhi Nô Khắc, sai Đan Ni Thế Môn
dụ hàng, thêm tráng đinh làm quân. Theo băi đất
vượt qua đường vắng, Tướng
tiền phong là Đại Nhĩ Ba Đồ chiêu
dụ người trong thành ra hàng, trong thành không
chuẩn bị chống giữ, liền ra hàng. Thái
Tổ ra lệnh Tốc Bất Thai thu lại, ra
lệnh đi thu hằng ngày, chở tiền vàng
một ngh́n năm trăm Để na [đơn
vị tiền của người Tây Vực].
Mùa xuân
năm thứ mười lăm, quân đến thành
Bố Cáp Nhĩ, ngày đêm đánh thành. Trong thành
có binh hai vạn người phá vây trốn ra,
đuổi đến sông A Mẫu, giết
hết đội quân này, dân chúng ra hàng. Thái
Tổ vào đến nhà thơ, thấy người
Hồi giáo cấm uống rượu, ra lệnh
lấy túi rượu đặt trên nhà thờ,
lấy kinh sách để chân ngựa giẫm xéo,
lại sái giáo sĩ cầm cương ngựa,
để làm ngục họ. Ra khỏi thành
bắt giáo sĩ giảng giải ở trên đài,
báo cho dân chúng biết v́ phản lại lời
ước giết sứ giả cho nên dấy binh
rửa thù cũ, nói: “Thượng Đế
sinh ra ta như người chăn nuôi cầm roi,
dùng để đánh đập các bầy
loại, không phải bọn ta mắc tội
với Thượng Đế, trời sao sinh ra
ta?”…
Mùa xuân
năm thứ mười lăm, quân đến thành
Bố Cáp Nhĩ, ngày đêm đánh thành. Trong thành
có binh hai vạn người phá vây trốn ra,
đuổi đến sông A Mẫu, giết
hết đội quân này, dân chúng ra hàng. Thái
Tổ vào đến nhà thờ, thấy người
Hồi giáo cấm uống rượu, ra lệnh
lấy túi rượu đặt trên nhà thờ,
lấy kinh sách để chân ngựa giẫm xéo,
lại sai giáo sĩ cầm cương ngựa,
để làm nhục họ. Ra khỏi thành
bắt giáo sĩ giảng giải ở trên đài,
báo cho dân chúng biết v́ phản lại lời
ước giết sứ giả cho nên dấy binh
rửa thù cũ, nói: “Thượng Đế
sinh ra ta như người chăn nuôi cầm roi,
dùng để đánh đập các bầy
loại, không phải bọn ngươi mắc
tội với Thượng Đế, th́ trời
sao sinh ra ta?”. Đan Ni Thế Môn phiên dịch
lời này, để ra lệnh cho dân chúng,
tịch thu người giàu, ra lệnh đưa
tiền của chôn giấu ra. Lúc ấy vẫn có
quân Khang Lí chống giữ ở luỹ trong thành,
sai dân chúng lấp hào để vào. Ngày thứ
hai mươi, luỹ bị phá, bắt dân ở
đây làm nô lệ.
Đại
quân men theo sông Tái Lạp Phủ Tán đến Tát
Mă Nhĩ Can, cảy thảy năm ngày đường.
Chia quân hạ trại làm luỹ ở bến sông.
Vua Tây Vực trước tiên đi nhanh đến
Tát Mă Nhĩ Can, đốc thúc dân chúng sửa thành
đào ao, nghe tin quân đến, rất sợ,
bảo là quân địch tinh nhuệ, ta không
thể ở đây, liền bỏ đi trước.
Trong thành có binh bốn vạn người,
chuẩn bị đầy đủ. Thái Tổ
thấy không dễ đánh, trước tiên
hợp lại bao vây để làm khó thành này.
Binh của bọn Thuật Xích từ ba đường
cũng đều đến dưới thành. Binh
trong thành là người Tháp Khởi Khắc có
một phần ba, người Khang Lí ở hai
phần ba trong số đó. Đến lúc rđa
đánh, quân Tháp Khởi Khắc đi trước,
trúng phải mai phục, quân Khang Lí không cứu
giúp, rồi thua to. Người Khang Lí tự
thấy ḿnh là cùng chủng loại với người
Mông Cổ, việc gấp rút th́ xin hàng, cho nên
không đánh nhiều. Thái Tổ khuyên bảo quân
hàng này, sai trước tiên đem vợ con ra thành,
dấy lên cực chẳng đă cũng hàng. Tướng
giữ thành là A Nhi Bát Hăn dẫn quân thân cận
phá vây trốn ra. Trong ngoài thành hai ṿng, năm ngày
chiếm hết được. Để quân
Khang Lí ở riêng một chỗ, ra lệnh
kết tóc, bảo cho viết sắp vào quân ngũ,
buổi đêm bèn giết hết họ. Bắt
lấy thợ, chia ra đến các trại. Dân
đinh ba vạn người dùng để lao
dịch, c̣n lại dân năm vạn người,
ra lệnh đưa tiền ra cho mười lăm
vạn, cho trở lại nhà cũ.
Ra
lệnh Triết Biệt riêng theo đường
phía bắc, Tốc Bất Thai theo đường
phía nam, đều thống lĩnh vạn quân
đuổi theo vua Tây Vực. Khuyên nói: “Gặp
quân kia nhiều, th́ không cùng đánh nhau, mà
lại đợi quân ở sau. Quân kia trốn
chạy, th́ đuổi gấp không tha. Qua thành lũy
nào, người ra hàng th́ đừng cướp
giết, không hàng th́ đánh chiếm, bắt dân
ở đấy làm nô lệ. Không dễ đánh,
th́ bỏ đi, không được đem binh
đến dưới thành vững chắc”.
Vua Tây
Vực chạy đến Tát Mă Nhĩ Can, đại
quân mới vượt sông Tích Nhĩ. Tướng
bày mưu kế, khuyên bảo họ nhanh chóng
đánh quân của các xứ ở Hoá Lặc
Tự Di, cùng ḷng chống giặc, ra sức
chống giữ sông A Mẫu, th́ vùng sông Tích Nhĩ
hiểm yếu dù mất, bên trong hiểm yếu
vẫn có thể giữ. Có người khuyên
đến Ca Tự Ni, nếu quân địch vào
sâu th́ đến Ấn Độ, đất này
nắng nóng nhiều núi hiểm trở, người
Mông Cổ không dám đi lên; Vương cho là
kế này vẹn toàn, theo đó. Sai người
đến Ô Nhĩ Kiện Xích, báo cho mẹ,
vợ của ḿnh, đến Mă Tam Đức Lan
tránh binh. Vương vuợt sông A Mẫu, đi
đến Ba Nhĩ Hắc, con của ḿnh là
Ốc Khẳng Ai Đinh từ Nghĩa Lạp
Khắc sai sứ giả đến, đón cha
từ phía tây đến, Vương lại đổi
kế theo con. Trát Lạp Lặc Đinh lúc ấy
theo cha, muốn giả làm chức thống lĩnh
quân sĩ, giữ sông A Mẫu. Vương nói là
c̣n nhỏ không trải qua sự việc, không
hứa. Chốc lát nghe tin Bố Cáp Nhĩ bị
hăm, tiếp theo lại nghe tin Tát Mă Nhĩ Can cũng
bị hăm, Vương gấp đến Nghĩa
Lạp Khắc. Quân đi theo đều là người
Khang Lí, ngầm mưu tính bỏ đi. Vương
có ư đề pḥng, mỗi lần nghỉ th́
đổi chỗ. Một đêm, dừng dời
chỗ khác, mà lại để trướng
trống không bị tên bắn đầy ghế.
Đến Nhĩ Sa Bất Nhi, nghe tin đại quân
đă vượt sông A Mẫu, giả nói là ra
đi săn, bỏ đến Nghĩa Lạp
Khắc.
Bấy
giờ, hai tướng Triết, Tốc đến
Phanh Xước Khắc, muốn vượt sông A
Mẫu, nhưng không có thuyền. Chặt cây
xếp làm ḥm rương, bọc da trâu, dê ở
ngoài, buộc ở đuôi ngựa, tướng sĩ
vin vào để vượt sông. Đă vượt
sông, chia đường đi lên. Triết
Biệt vào Ô Lạp Thương, dân chúng Ba Nhi
Hắc dâng tiền thiết đăi. Đến thành
Bạt Tát Bá, theo dấu tích của Vương,
chia ra sai người chiêu hàng các thành. Quân
tiền phong đến Nhĩ Sa Bất Nhi, dân chúng
tặng lương thực, xin đợi vua
của ḿnh đến th́ bắt lấy để
hàng. Triết Biệt đến dưới thành,
dân chúng cũng tặng lương thực, ra
lệnh cho người quyền qúy trong thành ra
gặp, trao cho bản cáo thị của Thái
Tổ, đại khái nói là trời đă ban
đất Tây Vực cho ta, kẻ hàng th́ đuợc
yên ổn, kẻ không hàng th́ giết không tha. Quân
của Tốc Bất Thai đi qua các đất
Đồ Tư, Khô Mẫu, Cát Bộ San, Y Tư
Pháp Lăng, Tháp Mật Can, Tây Mô Năng, không
gặp vua Tây Vực, muốn đi về phía tây
đến Nghĩa Lạp Khắc. Triết
Biệt từ Mă Tam Đức Lan vượt núi
đến phía nam, hai đội quân gặp nhau
ở thành Hợp Nhi Lạp Nhĩ, quân lại
hợp lại.
Vua Tây
Vực cùng Ốc Khẳng Ai Đinh thống lĩnh
mấy vạn người, giữ thành Khả Tư
Phí Âm ở Nghĩa Lạp Khắc, quân Mông
Cổ nhanh đến, cha con chia đường
chạy trốn. Vương cùng Cát Á Đại
Đinh vào lũy Khách Long, gặp quân đuổi
theo, bắn thương ngựa của Vương.
Ở trong luỹ một ngày, liền đi về
phía tây đến Báo Đạt. Đổi
đường về phía tây bắc, vào luỹ
ở núi Tuy Nhi Triết Hàn, ở đây bảy
ngày, đến Cơ Lan, lại đi về phía
đông đến Mă Tam Đức Lan, đồ
khí giới quân lương mất hết.
Đại
quân cũng vào Mă Tam Đức Lan, phá thành A Mô
Nhĩ ở đó, chiếm A Sĩ Đặc
Lạp Đặc. Vương chạy đến
náu ở bờ biển, lo buồn không thôi, mưu
tính chạy vào biển, ghé thuyền để
đợi. Ở Mă Tam Đức Lan ngày trước
có tù trưởng, bị Vương giết, con
của tù trưởng mưu tính trả thù, tŕnh
bày chỗ Vương ở. Đại quân
chợt đến, Vương vội lên
thuyền, có ba quân kị lội vào nước
đuổi Vương, Vương d́m cho ngă,
bắn tên cũng không đến. Thuyền đến
đảo nhỏ ở phía đông nam, Vương
lo lắng lại tức giận, toàn ngực
mắc nghẽn, dân ở đảo cùng đem
gạo thô đến lại không thể ăn, cũng
không có thầy thuốc. Bệnh đổi,
gọi con của ḿnh là Trát Lạt Lặc Đinh,
Ngạc Tư Lạp Khắc Sa, A Khắc Sa đến,
ra lệnh Trát Lạt Lặc Đinh nối
nghiệp, lấy kiếm đeo vào eo. Qua mấy
ngày, chết, không liệm thây, táng ở trong
đất.
Ốc
Khẳng Ai Đinh trốn vào Khởi Nhi Mạn,
ở được nửa năm, đem quân chúng
đến Hợp Nhi Lạp Nhĩ, tướng Mông
Cổ là Thai Mă Tư Thai Nạp Nhĩ đến
đánh, thua chạy đến luỹ Tô Thôn A
Bồn, đánh nửa năm, phá lũy, giết
Ốc Khẳng Ai Đinh.
[2]:Liệt truyện /Ngoại Di /Trảo Oa ( Java -Indonesia)
Trảo Oa [Java] ở
ngoài biển, nh́n Chiêm Thành thêm xa. Từ
Tuyền Nam đi thuyền vuợt biển, trước
tiên đến Chiêm Thành rồi sau đó đến
nước này. Phong tục, sản vật của
nước này không thể khảo xét, đại
khái là các nước phiên ở ngoài biển phàn
nhiều xuất đồ qúy, lạ, chọn
đồ quư đến Trung Quốc, mà người
ở nước này th́ xấu xí, tính t́nh,
tiếng nói không giống với Trung Quốc.
Thế Tổ vỗ về bốn chủng Di,
đem quân ra ngoài biển đến các nước
phiên, chỉ có quân đi đánh Trảo Oa là
lớn.
Tháng hai
năm Chí Nguyên thứ hai mươi chín [năm
thứ 1292 Công nguyên], chiếu lệnh Phúc
Kiến Hành tỉnh Trừ Sử Bật, Diệc
Hắc Mê Thất, Cao Hưng B́nh làm B́nh chương
Chính sự, chinh phạt Trảo Oa; hội họp
quân ở ba Hành tỉnh Phúc Kiến, Giang Tây,
Hồ Quảng cả thảy hai vạn người,
đặt ra hai Tả hữu quân Đô Nguyên súy
phủ, bốn Chinh Hành thượng Vạn
hộ, phát thuyền ngh́n chiếc, cấp cho lương
thực một năm, tiền bốn vạn nén,
ban cho hổ phù mười cái, phù vàng bốn mươi
cái, phù bạc trăm cái, áo vàng trăm cái, dùng
để thưởng người có công.
Bọn Diệc Hắc Mễ Thất đến cáo
từ, Hoàng đế nói: “Các khanh đến
Trảo Oa, bảo rơ cho quân dân nước ấy
biết, triều đ́nh lúc đầu cùng
Trảo Oa qua lại sứ giả giao hảo, sau
đó thích chữ lên mặt của sứ
giả là Mạnh Hữu thừa, v́ thế đến
chinh phạt”. Tháng chín, quân hội họp ở
Khánh Khuyên. Bật, Diệc Hắc Mễ Thất
lĩnh việc Tỉnh sự, đến Tuyền
Châu; dấy binh chở đồ quân lương
từ Khánh Nguyên đi thuyên vượt biển.
Tháng mười một, quân của ba tỉnh Phúc
Kiến, Giang Tây, Hồ Quảng hội họp
ở Tuyền Châu. Tháng mười hai, từ
bến Hậu Chử bắt đầu đi.
Tháng giêng
năm thứ hai mươi lăm, đến núi
Cấu Lan bàn bạc kế sách. Tháng hai, Diệc
Hắc Mễ Thất, Tôn Tham chính trước tiên
thống lĩnh bản tỉnh mạc quan cùng
bọn Chiêu dụ Trảo Oa Đẳng xứ Tuyên
ủy ti quan Khúc Xuất Hải Nha, Dương
Tử, Toàn Trung Tổ, Vạn hộ Trương
Tháp Lạt Xích hơn năm trăm người,
thuyền mười chiếc, trước tiên
đến chiêu dụ Trảo Oa. Đại quân
theo sao đến cửa Cát Lợi. Bật, Hưng
đến đất Đỗ Tịnh Túc
của nước Trảo Oa, cùng bọn Diệc
Hắc Mễ Thất bàn bạc, chia quân đóng
ở bờ, quân thuỷ, lục cùng đi.
Bật cùng Tôn Tham chính thống lĩnh bọn
Đô Nguyên súy Na Hải, Vạn hộ Ninh Cư
Nhân đem quân thủy, từ Đỗ Tịnh Túc
men theo đường Nhung Nha Lộ Cảng
Khẩu đến Bát Tiết Giản. Hưng cùng
Diệc Hắc Mễ Thất thống lĩnh
bọn Đô Nguyên súy Trịnh Trấn Quốc,
Vạn hộ Thoát Hoan đem quân bộ, kị,
từ Đỗ Tịnh Túc đi trên bộ.
Lấy Vạn hộ Thân Nguyên làm tiên phong. Sai
bọn Phó Nguyên súy Thổ Hổ Đăng Ca,
Vạn hộ Trữ Hoài Nguyên, Lí Trung cưỡi
thuyền nhọn, theo đường Nhung Nha
Lộ, Vu Ma Nhạ Ba Hiết Phù Lương đi
trước, hẹn đến đất Bát
Tiết Giản hội họp.
Chiêu
dụ Trảo Oa Tuyên ủy ti quan nói: Con rể
của vua Trảo Oa là Thổ Hăn Tất Đồ
Gia đem cả nước đến xin hàng,
Thổ Hăn Đồ Gia không thể rời quân,
trước tiên ra lệnh Dương Tử, Cam
Châu Bất Hoa, Toàn Trung Tổ dẫn Tể tướng
của nước ấy là Tích Lạt Nan Đáp
Trá Gia cùng hơn năm mươi người
đến đón. Ngày thứ nhất tháng ba,
hội quân ở Bát Tiết Giản. Phí trên
của đất Giản [Bát Tiết Giản]
tiếp với Đỗ Mă Ban Vương
Phủ, phía dưới thông với Bồ Bôn
Đại Hải, là đất cổ họng
hẳn phải tranh chiếm của nước
Trảo Oa. Lại có mưu thần của nước
ấy là Hi Ninh Quan men theo sông đỗ thuyền,
đứng yên xem được, thua, ba lần
đến chiêu dụ mà không hàng. Hành tỉnh
đến vùng ven đất Giản đặt
doanh trại Yển Nguyệt, giữ Vạn
hộ Vương Thiên Tường ở lại
giữ bến sông, bọn Thổ Hổ Đăng
Ca, Lí Trung thống lĩnh quân thủy, bọn
Trịnh Trấn Quốc, Tỉnh Đô Trấn
Phủ Luân Tín thống lĩnh quân bộ, kị,
thuỷ, lục cùng đi. Hi Ninh Quan sợ, nhân lúc
đêm tối bỏ thuyền bỏ trốn.
bắt được thuyền Quỷ đầu
hơn trăm chiếc. Ra lệnh cho bọn Đô
Nguyên súy Na Hải, Vạn hộ Ninh Cư Nhân,
Trịnh Khuê, Cao Đức Thành, Trương
Thụ canh giữ cửa biển Bát Tiết
Giản.
Đại
quân đang đi, Thổ Hăn Tất Đồ Gia
sai sứ giả đến báo, Cát Lang Vương
đuổi giết đến Ma Nhạ Ba
Hiết, xin quan quân cứu ông ta [Thổ Hăn
Tất Đồ Gia]. Diệc Hắc Mê Thất,
Trương Tham chính trước tiên đến
an ủi Thổ Hăn Đồ Gia, Trịnh Trấn
Quốc dẫn quân đến Chương Cô
cứu giúp. Hưng đến Ma Nhạ Ba
Hiết, th́ quân của Cát Lang Vương chưa
biết xa, gần, Hưng quay về Bát Tiết
Giản. Diệc Hắc Mê Thất lại báo là
quân giặc buổi đêm lại đến,
gọi Hưng đến Ma Nhạ Ba Hiết.
Tháng
bảy, quân của Cát Lang chia làm ba đường
đánh Thổ Hăn Tất Đồ Gia. Gần sáng
ngày thứ tám, Diệc Hắc Mễ Thất, Tôn
Tham chính thống lĩnh Vạn hộ Lí Minh
chờ giặc ở phía tây nam, không gặp. Hưng
cùng Thoát Hoan theo đường phía đông nam
đánh nhau với giặc, giết mấy trăm
người, c̣n lại tan vơ chạy vào hang núi.
Giữa ngày, ở đường phía tây nam quân
giặc lại đến, Hưng trở lại
đánh đến buổi trưa, lại đánh
bại được chúng. Ngày thứ mười
lăm, chia quân làm ba đường đánh Cát
Lang, hẹn ngày thứ mười chín hội
họp ở Đáp Hà, nghe tiếng pháo th́ vào
đánh. Bọn Thổ Hổ Đăng Ca đem
quân thủy ngược ḍng nước mà lên,
bọn Diệc Mắc Mê Thất theo đường
phía tây nam, bọn Hưng theo đường phía
đông mà đi, quân của Thổ Hăn Tất
Đồ Gia theo sau. Ngày thứ mười chín,
hội họp ở Đáp Hà. Vua của nước
Cát Lang đem binh hơn mười vạn người
đến đánh nhau, từ giờ măo đến
giờ mùi, đánh nhau liên tiếp ba trận,
giặc thua, tan chạy rơi xuống sông
chết đến mấy vạn người,
giết hơn năm ngh́n người. Vua của
nước Cát Lang vào trong thành chống giữ,
quan quân bao vây thành, lại chiêu dụ ông ta ra hàng.
Buổi đêm ấy, Vua của nước này là
Hà Chỉ Cát Đương ra hàng, vỗ về
ra lệnh cho trở về.
Ngày
thứ tư tháng tư, sai Thổ Hăn Tất
Đồ Gia trở về đất của ông
ta, sửa soạn vào vào cống, sai Vạn
hộ Niết Chỉ Bất Đinh, Cam Châu
Bất Hoa đem binh hai trăm người bảo
vệ. Ngày thứ mười chín, Thổ Hăn
Tất Đồ Gia làm phản, trốn đi,
giữ quân ở lại chống giữ. Niết
Chỉ Bất Đinh, Tỉnh duyện Phùng Tường
đều bị hại chết. Ngày thứ hai mươi
tư, đem quân trở về, bắt được
vợ con, quan thuộc của Hà Chỉ Cát
Đương hơn trăm người, cùng
bản đồ địa dư, hộ khẩu,
thư tịch, tờ biểu vàng để
về. Việc này chép trong truyện Sử
Bật, Cao Hưng.
Trảo
Oa ở ngoài biển, thấy Chiêm Thành thêm xa. Tên
của nước này bị các nhà viết
sử không chép. Từ Tuyền Nam đi thuyền
vượt biển, trước tiên đến
Chiêm Thành rồi mới đến nước này.
Thế
Tổ đem binh ra ngoài biển, chỉ có quân
đến Trảo Nha là lớn nhất. Từ năm
Chí Nguyên thứ mười bảy, bắt đầu
ban chiếu chỉ đến chiêu dụ nước
này. Năm thứ hai mươi ba, sai bọn
Tất Lạt Man đến Trảo Oa, từ
đó sứ giả qua lại không ngớt. Sau
đó sai Mạnh Ḱ cầm chiếu lệnh đến,
Quốc vương nước này thích chữ lên
mặt của Mạnh Ḱ rồi sai về, Hoàng
đế giận, quyết ư đánh nước
này.
Tháng hai
năm thứ hai mươi chín, chiếu lệnh
cho Sử Bật, Cao Hưng Diệc Hắc Mê
Thất đều làm Phúc Kiến Hành tỉnh B́nh
chương, hội họp quân ở ba tỉnh Phúc
Kiến, Giang Tây, Hồ Quảng cả thảy hai
vạn người, phát thuyền đi biển
ngh́n chiếc, đem lương thực một năm,
ban cho phù hổ, phù vàng, phù bạc đến trăm
cái, dùng dự sẵn để thưởng công.
Đại quân hội họp ở Tuyền Châu,
từ bến Hậu Chử khởi hành. Sóng to gió
lớn, thuyền tṛng trành, quân sĩ mấy ngày
không thể ăn. Qua biển Thất Châu, Vạn
Lí Thạch Đường, vượt qua
cảnh giới của Giao Chỉ, Chiêm Thành.
Tháng giêng
năm sau, đến Đông Đổng, núi Tây
Đổng, Ngưu Khi Tự, vào biển lớn
Hỗn Độn, các núi Cảm Lăm Tự, Giá Lí,
Mă Đáp, Cẩu Lan, trú ngựa chặt cây, làm
thuyền nhỏ để vào. Sai bọn Tuyên
ủy ti Dương Tử, Toàn Trung Tổ đem
hơn năm trăm người trước tiên
đến chiêu dụ. Đại quân theo sau đi
lên, bọn Bật đến đất Đỗ
Tịnh Túc của Trảo Nha, bàn bạc chia quân
thủy, lục đến đánh. Bật
thống lĩnh bọn Đô Nguyên súy Na Hải
đem quân thủy, từ Đỗ Tịnh Túc, vượt
qua cửa cảng Nhung Nha, đến khe nước
Bát Tiết. Hưng cùng Diệc Hắc Mê Thất
đem quân mă, bộ, từ Đỗ Tịnh Túc
đi trên bộ, sai Phó Nguyên súy Thổ Hổ
Đăng Ca đi thuyền mũi nhọn, theo
đường Nhung Nha đến cầu nổi
ở Ma Nhạ Ba Hiết
Bấy
giờ Trảo Oa đang cùng nước bên
cạnh là nước Cát Lang gây thù oán với
nhau, Vương của nước Trảo Oa
bị tù trưởng của Cát Lang là Hà Chỉ
Cát Đương giết. Con rể của Vương
nước Trảo Oa là Thổ Hăn Tất Đồ
Gia đánh Cát Lang không thắng, lùi về giữ
Ma Nhạ Ba Hiết, nghe tin bọn Bật đến,
đem bản đồ sông núi, hộ khẩu
của nước ḿnh, cùng dâng bản đồ
nước Cát Lang đến xin hàng. Trước
tiên ra lệnh cho Dương Tử, Toàn Trung
Tổ dẫn bọn Tể tướng của
Thổ Hăn Tất Đồ Gia là Tích Lạt Nan
Đáp Trá Gia đem hơn năm mươi người
đến đón đại quân, hội họp
ở khe nước Bát Tiết. Trên khe nước
tiếp với Đỗ Mă Ban Vương
Phủ, dưới thông với biển lớn
Bồ Bôn, là đất yết hầu quan
trọng của nước Trảo Oa. Mưu
thần của ông ta là Giả Hi Ninh Quan men theo sông
đỗ thuyền, đứng xem xét được,
thua, ba lần đến chiêu dụ ông ta mà không
hàng. Bèn ở ven khe nước lập trại
yển nguyệt, giữ Vạn hộ Vương
Thiên Tường ở lại giữ bến sông,
bon Thổ Hổ Đăng Ca dẫn quân thủy,
lục cùng đi lên. Hi Ninh Quan sợ, nhân lúc
đêm tối bỏ thuyền trốn đi,
bắt được thuyền Qủy đầu
hơn trăm chiếc. Ra lệnh cho Đô Nguyên súy
Na Hải giữ cửa biển khe nước Bát
Tiết.
Đại
quân đang đi, Thổ Hăn Tất Đồ Gia
sai sứ giả đến báo là Vua của Cát
Lang đuổi giết đến Ma Nhạ Ba
Hiết, xin quan quân cứu giúp. Diệc Hắc Mê
Thất tin theo, trước tiên sai Đô nguyên súy
Trịnh Trấn Quốc dẫn quân đến Chương
Cô giúp ông ta. Cao Hưng đến Ma Nhạ Ba
Hiết, th́ quân của Cát Lang chưa biết xa,
gần, Hưng quay lại đến khe nước
Bát Tiết, có tin báo quân giặc buổi đêm
đang đến, Hưng lại đến Ma
Nhạ Ba Hiết.
Ngày
kỉ mùi, quân của Cát Lang quả nhiên chia làm
ba đường đến đánh. Diệc
Hắc Mê Thất thống lĩnh Vạn hộ Lí
Monh đón giặc ở phía tây nam, không gặp.
Hưng cùng Vạn hộ Thoát Hoan theo đường
phía đông nam giao chiến, giết mấy trăm
người, quân giặc c̣n lại bỏ
trốn vào hang núi. Chốc lát giặc từ phía
tây nam chợt đến, Hưng trở lại
đánh đến buổi trưa, lại đánh
bại chúng. Rồi chia quân làm ba đường
đánh Cát Lang, Thổ Hổ Đăng Ca đem
quân thủy ngược ḍng mà lên, Diệc
Hắc Mê Thất theo đường phía tây,
bọn Hưng theo đường phía đông,
Thổ Hăn Tất Đồ Gia đem quân bản
bộ của ḿnh theo sau, hẹn hội họp
ở thành Đáp Hà. Vua của nước Cát
Lang đem binh hơn vạn người đến
chống cự, đánh ba trận, quân giặc
thua, tan vỡ, người rơi xuống sông
chết rất nhiều. Đến vây thành này.
Buổi đem đó, Hà Chỉ Cát Đương
ra hàng, đem theo vợ con của ḿnh.
Thổ Hăn
Tất Đồ Gia xin về, chuẩn bị
biểu xin hàng, cống đồ trân quư của
nước ḿnh, sai Vạn hộ Niết Chỉ
Bất Đinh, Cam Châu Bất Hoa thống lĩnh
quân hộ tống ông ta. Đến Trung Đồ,
làm phản giết hai sứ giả, bỏ đi.
Lại hội họp quân chúng đến đánh.
Bọn Bật vừa đánh vừa đi ba trăm
dặm, lên được thuyền, đi sáu mươi
tám ngày đêm, đến Tuyền Châu, quân sĩ
chết hơn ba ngh́n người. Hoàng đế
giận bọn Bật coi thường quân
giặc, không có công, cả bọn đều
bị đánh đ̣n.
Năm
Đại Đức đầu tiên thời Thành
Tông, nước Trảo Oa sai Xá Lạt Ban
Trực Mộc đến dâng biểu xin hàng,
bắt đầu nhận chiếu lệnh. Năm
Nguyên Trinh đầu tiên, đến dâng phương
vật. Hai triều Nhân, Anh, đều sai sứ
giả đến. Năm Thái Định thứ
hai, cũng dâng biểu vào cống. Năm Trí Ḥa
đầu tiên, chiếu lệnh ưu đăi
Quốc vương của Trảo Oa là Trát Nha
Nạp Ca, lại ban cho đồ áo, cung tên. Năm
Chí Thuận thứ ba thời Văn Tông, sai
quần thần của ḿnh là bọn Tăng Già
Lạt, dâng biểu thư bằng vàng để
dâng. Năm Chí Chính thứ hai mươi ba
thời Huệ Tông, sai sứ giả là Đam Mông
Gia Già Điện đến cống phương
vật, Hoàng đế ban cho Vương của nước
này phù hổ bằng ngọc châu cùng vải
vải dệt có hoa văn, tiền.
Đất
của nước này bằng phẳng, hợp
với lúa gié, cây gai, lúa tễ, đậu, không
có chè. Nấu nước biển làm muối,
xuất vàng bạc, sừng tê giác, cây đàn hương,
hồi hương, cũng làm vải tơ
tằm. Nhà cửa to đẹp, phần nhiều
trát vàng bích. Cắt lá bạc làm tiền. Rượu
ở đây làm từ cây nhu đan, rất thơm,
đẹp. Tục ở đây có tên nhưng không
có họ. Vương th́ búi tóc h́nh cái vồ,
đeo chuông vàng, mặc áo gấm dài, đi giày
da, ngồi ở giường vuông. Quan lại vào
yết kiến, ba lần vái th́ lui. Người
trong nước thấy Vương th́ ngồi,
đợi Vương đi qua, lại đứng
dậy để cung kính vậy.
[3]: Liệt truyện /Ngoại Di /An Nam
Nước An Nam, đất Giao
Chỉ ngày trước vậy. Nhà Tần chiếm thiên hạ,
đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng.
Nhà Tần mất, Nam Hải Úy Triệu Đà
đánh chiếm đất ấy. Nhà Hán đặt
9 quận, Giao Chỉ là một trong đó. Sau có
người con gái là Chinh Trắc phản, sau Mă
Viện đánh dẹp Chinh Trắc, lập
cột đồng làm biên giới của nhà Hán.
Nhà Đường bắt đầu chia đất
Lĩnh Nam làm hai đạo Đông, Tây, đặt
quan Tiết độ, lập Ngũ quản, An Nam
lệ thuộc vào đó. Nhà Tống phong Đinh
Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ Quận Vương,
con của Đinh Bộ Lĩnh cũng làm Vương,
truyền được 3 đời th́ bị Lí
Công Uẩn đoạt ngôi vị, liền phong Công
Uẩn làm Vương. Họ Lí truyền 8 đời
đến Hạo Sảm, Trần Nhật Cảnh
làm con rể của Hạo Sảm, bèn có nước
nay.
Ngày qúy sửu năm thứ 3
thời Nguyên Hiến Tông, Ngột Lương Cáp
Thai theo Thế Tổ đánh Đại Lí.
Thế Tổ về, giữ Ngột Lương Cáp
Thai ở lại đánh các nước Di chưa
hàng phục. Tháng 11 ngày đinh tị năm
thứ 7, quân của Ngột Lương Cáp Thai
đến phía bắc Giao Chỉ, trước sai
hai sứ giả đến chiêu dụ, không
trở về, bèn sai bọn Triệt Triệt
Đô cùng đem 2,000 người, chia đường
tiến binh, đến đóng ở trên sông Thao
ở phía bắc kinh đô của An Nam, lại
sai con là A Thuật đến giúp ḿnh, ḍ xét
thật giả của nước này. Người
Giao cũng bày nhiều quân giữ ǵn. A Thuật
sai quân về báo, Ngột Lương Cáp Thai
gấp đường tiến lên, sai Triệt
Triệt Đô làm tiên phong, A Thuật đi sau làm
thanh viện. Tháng 12, hai quân tụ hội, người
Giao giật ḿnh kinh hăi. A Thuật thừa cơ
đánh bại quân thủy của người
Giao, bắt được thuyền chiến
đưa về.
Ngột Lương Cáp Thai cũng
phá quân bộ của người này, lại cùng
A Thuật hội đánh, đại phá chúng,
rồi vào nước này. Nhật Quưnh chốn
chạy vào biển đảo. Bắt gặp
sứ giả ngày trước ở trong ngục,
bị dây tre trói lằn vào da thịt, lúc cởi
trói ra, một sứ giả chết, do đó làm
cỏ thành này. Ở lại nước này 9 ngày,
v́ khí trời nóng bức, bèn rút quân. Sai hai
sứ giả quay lại chiêu dụ Nhật Huyên
đến hàng phục. Nhật Quưnh trở
về, thấy kinh đô của ḿnh đă tan
hoang, rất giận, ép hai sứ giả quay
về.
Tháng 2 ngày mậu ngọ năm
thứ 8, Nhật Cảnh truyền nước cho
con trưởng là Quang Bính, đổi niên
hiệu Thiệu Long. Mùa hạ, Quang Bính sai con
rể cùng người nước này đem phương
vật đến, Ngột Lương Cáp Thai
hộ tống đến sở quan, sai riêng
Nột Lạt Đinh đến dụ chúng nói:
“Trước ta sai sứ giả đến giao
hảo, các ngươi bắt giữ mà không cho
quay về, ta do đó phát binh năm trước.
V́ vua của nước ngươi đứng
trốn ở đồng cỏ, lại lệnh
cho hai sứ giả đến gọi về nước,
ngươi lại ép sứ giả ta trở
về. Nay sai riêng sứ giả đến dụ,
nếu các ngươi thực ḷng nội
thuộc, th́ vua nước ngươi phải
tự ḿnh đến, nếu vẫn không
chừa, sớm đến báo cho ta”. Quang Bính nói:
“Nước nhỏ thật ḷng thờ Nhà vua, th́
nước lớn lấy ǵ đối đăi nước
nhỏ?”. Nột Lạt Đích về báo.
Bấy giờ Vương chư hầu là Bất
Hoa giữ Vân Nam, Ngột Lương Cáp Thai nói
với Vương, lại sai Nột Lạt Đinh
đến dụ, sai sứ gủa cùng đến.
Quang Bính bèn thực ḷng nạp thuộc, lại nói:
“Đợi ban ân đức, liền sai con em làm
con tin”. Vương lệnh cho Nột Lạt
Đinh lên ngựa đưa tin vào tấu lên.
Tháng 12 năm Trung Thống thứ
đầu thời Thế Tổ, lấy Mạnh
Giáp làm Lễ bộ Lang trung, xuống phương
nam là sứ giả chiêu dụ, Lí Văn Tuấn
làm Lễ bộ Thị lang, làm Phó sứ, cầm
chiếu thư đến dụ nước này.
Đại khái nói: “Tổ tông lấy vơ công
dựng nghiệp, chưa sửa văn hóa.
Trẫm nối nghiệp dở, thay mới bỏ
cũ, công việc vừa làm. Vừa rồi
quần thần giữ đất Đại Lí là
An phủ Niếp Chỉ Mạch Đinh ruổi
ngựa dâng biểu đưa tin, nước ngươi
có ḷng thực mộ nghĩa, nhớ đến xưa
kia khanh thờ triều trước, đă
từng thần phục, cống phương
vật nhiều lần, cho nên đem chiếu
chỉ đến, báo cho dân chúng quan lại
của nước ngươi biết: Tất
cả mũ áo, phép lễ, phong tục đều
phải theo phép tắc cũ của nước
ta, rồi nữa tướng ngoài biên không
được tự tiện dấy binh giáp,
lấn chiếm bờ cơi, làm loạn dân chúng. Dân
chúng, quan lại của nước khang, đều
nên giữ yên phép tắc như cũ”. Lại
bảo cho bọn Giáp, nếu Giao Chỉ sai con em vào
gặp, phải giao hảo họ, chớ
được nóng lạnh làm trái tiết
lễ, làm chúng khổ sở vậy.
Năm thứ hai, bọn Mạnh Giáp
về, Quang Bính sai người trong họ là Thông
thị Đại phu Trần Phụng Công, Viên
ngoại lang Chư vệ Kí ban Nguyễn Sâm, Viên
ngoại lang Nguyễn Diễn đến cửa
khuyết dâng thư, xin 3 năm cống 1 lần.
Đế theo lời xin, rồi phong Quang Bính làm
An Nam Quốc Vương.
Tháng 9 năm thứ 3, lấy 3
tấm gấm Tây, 6 tấm gấm thêu vàng ban cho
nước này, lại ban chiếu lệnh nói:
“Khanh đă giao con tin làm quần thần, từ
năm Trung Thống thứ 4 làm đầu,
mỗi 3 năm cống 1 lần, có thể
chọn Nho sĩ, thầy thuốc, cùng thầy bói
âm dương, các người đẹp, thợ
khéo mỗi nhóm 3 người, cùng các vật là
dầu tô, quang hương, vàng, bạc, chu sa,
trầm hương, đàn hương, sừng tê,
đồi mồi, ngọc qúy, ngà voi, gấm,
đá từ cùng đến”. Vẫn lấy
Nột Lạt Đinh làm Đạt lỗ hoa xích,
đeo phù hổ, qua lại giữa nước An
Nam.
Tháng 11 năm thứ tư, Nột
Lạt Đinh quay về, Quang Bính sai Dương
An Dưỡng làm Viên ngoại lang cùng bọn
Nội lệnh Vũ Phục Hoàn, Thư xá
Nguyễn Cầu, Trung dực lang Phạm Cử dâng
biểu vào tạ ân, Đế ban thưởng
cho sứ giả dải ngọc, lụa dày,
thuốc, yên, dây cương ngựa. Tháng 7 năm
Chí Nguyên thứ 2, sứ giả về, lại ban
chiếu thư vỗ về nước này,
vẫn ban cho lịch cùng chiếu thư báo cho
biết đă đổi niên hiệu.
Tháng 12 năm thứ 3, Quang Bính sai
Dương An Dưỡng dâng 3 tờ biểu, 1
trong đó đến dâng phương vật, 2
trong đó xin miễn dâng người tài, thợ
khéo, 3 trong đó xin lập Nột Lạt Đinh
làm Đạt lỗ hoa xích của nước này.
Tháng 9 năm thứ 4, sứ
giả về, đáp chiếu thư cho phép,
vẫn ban Quang Bính các vật dải ngọc,
lụa thêu vàng, thuốc, yên, dây cương
ngựa. Chưa bao lâu, lại ban chiếu dụ có
6 việc: 1, quân trưởng phải tự ḿnh vào
chầu; 2 con em làm con tin; 3, ghi chép số dân chúng;
4, ra phục dịch quân đội; 5, chuyển
nạp tô thuế; 6, vẫn đặt quan Đạt
lỗ hoa xích thống trị nước này.
Tháng 11, lại ban chiếu dụ
Quang Bính, v́ nước này có nhà buôn người
Hồi Cốt, muốn bắt chước theo
việc của Tây Vực, lệnh phải sai
đi đến. Tháng đó, chiếu lệnh
phong Hoàng yuwr làm Trấn Nam Vương, đến
giữ các nước Đại Lí, Thiện
Xiển, Giao Chỉ.
Tháng 9 năm thứ 5, Quang Bính dâng
thư bày tỏ, nói: “Bọn nhà buôn Hồi
Cốt, có một người tên là Y Ôn chết
đă lâu ngày rồi, một người tên là Bà
Bà, vừa rồi cũng bệnh chết. Lại
theo lời Hốt Lung Hải Nha cống nạp cho
Bệ hạ mấy con voi. Con vật này thân
thể rất lớn, đi bộ rất khó, không
bằng ngựa của nước Bệ hạ, cúi
nhận chiếu lệnh, đến năm sau
sẽ đến dâng vậy”. Lại chuẩn
bị biểu thư vào cống nạp, riêng dâng
biểu tạ ân trao gấm Tây, tiền lụa,
thuốc.
Tháng 11 năm thứ 7, Trung thư
tỉnh đem thư đến cho Quang Bính, nói là
y nhận chiếu mà không bái, lúc chờ sứ
giả đến mà không dùng lễ của
bậc Vương, rồi dẫn phép tắc
thời “Xuân thu” ra mắng y, lại lệnh cho
nước này đem voi và phương vật
cống hằng năm cùng đến, lại
nữa các vật cống là thuốc mùi không
ngon, thuế thu được của người
Hồi Cốt, lừa dối từ chối,
từ nay về sau, phải xem xét việc này.
Tháng 12 năm thứ 8, Quang Bính
lại dâng thư nói: “Nước thần
nhận lệnh thiên triều, đă phong cho tước
Vương, há không lấy lễ của bậc Vương
sao? Sứ giả của thiên triều đến
nói: Bậc Vương cùng với sứ giả
th́ đáp lễ ngang nhau, sợ làm nhục
triều đ́nh. Huống chi nước thần lúc
trước nhận chiếu chỉ, lệnh
phải theo tục cũ, phàm là nhận chiếu
lệnh, nhận ở điện giữa nhưng
lui ra ở nhà sau, đấy là phép tắc cũ
của nước thần vậy. Đến
dụ đ̣i voi, lúc trước sợ trái ư
chỉ, sợ có lỗi mà chưa trả lời,
thực ra v́ tên quản voi không nỡ rời voi,
nên khó sai bảo. Lại nữa dụ đ̣i nhà
Nho, thầy thuốc, thợ khéo, th́ quần
thần của thần là bọn Lê Trọng Đà
vào ở dưới bậc thềm, gần
Bệ hạ gang tấc, c̣n không nghe được
chiếu dụ, huống chi năm Trung Thống
thứ 4 đă rộng lượng tha thứ
rồi, nay lại đến dụ, ngạc nhiên
sao xiết, chỉ có kẻ dưới gác này
nhớ việc này”.
Năm thứ 9, lấy Diệp
Thức Niết làm An Nam Đạt lỗ hoa xích,
Lí Nguyên theo giúp. Tháng giêng năm thứ 10,
Diệp Thức Niết chết, lệnh cho Lí Nguyên
thay Thức Niết, rồi lấy Cáp Tát Nhi
Hải Nha làm phó. Trung thư tỉnh lại
đưa thư đến Quang Bính nói:
“Năm nay sứ giả trở
về nói, Vương thường nhận
chiếu lệnh của của Thiên tử, nhưng
chỉ đứng chắp tay mà không bái, cùng
sứ giả gặp nhau uống rượu,
ngồi vị trí trên sứ giả. Nay xem thư
đến, tự bảo là đă nhận tước
Vương rồi, há không lấy lễ bậc Vương
sao? Xét phép “Xuân thu” bậc Vương ngồi
trên chư hầu, “Thích lệ” nói: Bậc Vương
hơn hạ sĩ vậy. Vua của nước hàng
thứ thứ 4, người tôn qúy của
quần thần bên ngoài vậy. Hạ sĩ,
kẻ thấp hèn trong hàng quần thần bên
trong vậy. Lấy kẻ thấp hèn ngồi trên
người tôn qúy, đại khái là lệnh
mệnh vua làm trọng. Đời sau Vương
chưa hầu lập tước, người tôn
qúy trong hàng chư hầu, xem đi há có v́ tước
của Vương là là người này chăng?
Vương sao không biết mà nói như vậy,
hay là quần thần dùng thư từ là lời
này sao? Đến như chiếu lệnh của
Thiên tử, quần thần phải bái nhận,
đấy là lễ nghĩa dùng xưa nay, không
cho làm khác vậy.
Lại nói lúc trước nhận
chiếu chỉ, đều theo phép cũ, nước
ngươi tuân theo mà làm, lúc nhận chiếu
lệnh, nhận ở điện giữa mà lui vào
nhà sau, đấy là lễ phép cũ vậy.
Đọc đến đây, thực là sửng
sốt. Vương nói ra lời này, có thể làm
yên ḷng ḿnh chăng? Lời nói của chiếu
chỉ lúc trước, đại khái nói là
giữa đất trời không chỉ có vạn
nước, nước đều có tục, thường
xuyên thay đổi, có chỗ không thuận, cho nên
dùng tục của nước ngươi, há
lại không bái nhận chiếu lệnh của
Thiên tử và làm theo tục lệ sao? Vả
lại giáo hóa của Vương ra lệnh ở
trong nước, nếu quần thần có kẻ
nhận lệnh mà không bái, th́ Vương cho là
như thế nào? Quân tử cốt ở sửa
lỗi, suy nghĩ sâu rộng, phải xét rơ
việc này”.
Năm thứ 11, Quang Binh sai Đồng
Tử Dă, Lê Văn Ẩn đến cống. Tháng
giêng năm thứ 12, Quang Bính dâng biểu xin băi
chức Đạt lỗ hoa xích của nước
này. Lời văn nói:
“Kẻ quần thần hèn
mọn này ở góc biển, được
tiếp xúc với giáo hóa thánh hiền cùng bao
bọc, vui thích đánh trống múa hát. Xin nghĩ
cho thần từ lúc hàng phục nước
lớn, hơn 10 năm rồi, tuy nhận lệnh
3 năm cống 1 lần, nhưng thay nhau sai sứ
giả, mệt mỏi vi qua lại, chưa
từng 1 ngày được nghỉ ngơi. Quan
Đạt lỗ hoa xích mà thiên triều sai đến,
làm nhục đất thần, sao có thể yên
ổn, huống chi người làm, lúc động
th́ có chỗ dựa, khinh thường nước
nhỏ. Tuy Thiên tử sáng rơ cùnng với Mặt
trời, Mặt trăng, sao có thể chiếu
đến chỗ chậu úp. Vả lại Đạt
lỗ hoa xích đặt ra ở đất Man
nhỏ bé ngoài biên, há có thần đă nhận
phong Vương làm phên dậu một phương
nữa, va lại lập Đạt lỗ hoa xích
đến xem xét nước thần, há không
bị nước chư hầu cười sao?
Sợ hăi quan này xem xét mà sửa việc cống
nạp, sao có thể khiến trong ḷng vui vẻ
sửa việc cống nạp đây. Thần cung
kính thiên triều thu nạp, sau khi ban phong, ân
lớn tràn đầy, lan khắp bốn biển,
liền dám kêu buồn, cúi mong Bệ hạ nhân
từ thương xót. Nay sau khi 2 lần sai sứ
giả đến cống theo phép tắc, một
lần đến Thiện Xiển cống
nạp, một lần đến Trung Nguyên bái dâng.
Tất cả quan lại mà Thiên triều sai đến,
xin được đổi làm sứ giả
dẫn đường đến cống, mới
mong bỏ được cái xấu của Đạt
lỗ hoa xích, không những là cái may mắn
của thần, mà c̣n là cái may mắn của
một nước vậy”.
Tháng 2, lại ban chiếu lệnh,
v́ vật cống không giúp ích, dụ 6 việc,
lại sai Cáp Tản Nhi Hải Nha làm Đạt
lỗ hoa xích, vẫn lệnh cho con em vào hầu.
Tháng 2 năm thứ 13, Quang Bính sai Lê Khắc
Phục, Văn Túy vào cống, v́ nhận lệnh
đến Thiện Xiển nạp cống, người
làm việc không cung kính, dâng biểu tạ
lỗi, đều xin miễn 6 việc.
Năm thứ 14, Quang Bính chết,
người trong nước lập Thế tử
của Quang Bính là Nhật Huyên, sai Trung thị
Đại phu Chu Trọng Ngạn, Trung lượng
Đại phu Ngô Đức Thiệu vào chầu.
Tháng 8 năm thứ 15, sai Lễ bộ Thượng
thư Sài Xuân, Hội đồng quán sứ Cáp
Lạt Thoát Nhân, Công bộ Lang trung Lí Khắc
Trung, Công bộ Viên ngoại lang Đổng Đoan,
cùng bọn Lê Khắc Phục cầm chiếu thư
đến dụ Nhật Huyên vào chầu nhận
mệnh. Lúc đầu, qua lại sứ giả
vậy, chỉ theo đường nước
Thiện Xiển, Lê Hóa qua lại, Đế
lệnh cho Sài Xuân từ Giang Lăng đến
thẳng Ung Châu để đến Giao Chỉ.
Tháng 11 nhuận, bọn Sài Xuân
đến trại Vĩnh B́nh thuộc Ung Châu,
Nhật Huyên sai người dâng thư, nói: “Nay
nghe tin ông đến đất tệ này, dân ngoài
biên không ai không kinh hăi, không biết sứ
giả người nước nào mà đến
ở chỗ này, xin đem quân theo đường
cũ để đi”. Xuân đáp thư nói:
“Các quân Lễ bộ Thượng thư
nhận mệnh của Nhà vua cùng với bọn Lê
Khắc Phục của nước ngươi theo
đường từ Giang Lăng đến Ung Châu
mà vào An Nam, quân sĩ các chỗ đi qua dẫn
đường hộ tống, cùng lập
trạm dịch, nên đến biên giới đón
tiếp”. Nhật Huyên sai Ngự sử Trung trung
tán kiêm Tri thẩm H́nh viện sự Đỗ
Quốc Kế đến trước, Thái úy
của nước này đem trăm quan từ
bờ sông Phú Lương ra đón vào quán
sở.
Ngày thứ 2 tháng 12, Nhật Huyên
đến quán sở gặp sứ giả. Ngày
thứ 4, Nhật Huyên bái đọc chiếu thư.
Bọn Xuân truyền chiếu chỉ nói: “Nước
ngươi nội thuộc hơn 20 năm,
gần đây 6 việc thưa thấy theo. Ngươi
nếu không chầu, th́ sửa thành của ngươi,
chỉnh đốn quân sĩ của ngươi
để đợi quân của ta”. Lại nói:
“Cha ngươi nhận mệnh làm Vương,
ngươi không xin mệnh mà tự lập, nay
lại không chầu, ngày kia triều đ́nh xét
tội, sẽ lấy ǵ để trốn
tội? Mong nghĩ kĩ việc này”. Nhật Huyên
vẫn theo phép cũ đặt tiệc ở dưới
mái hiên, bọn Xuân không đến dự
tiệc. Rồi về quán sở, Nhật Huyên sai
Phạm Minh Tự đem thư tạ lỗi,
đổi đặt tiệc ở điện
Tập Hiền. Nhật Huyên nói: “Vua cha ĺa đời,
ta mới lập vị.
Sứ giả Thiên triều đi
đến, chiếu thư mở dụ, khiến
cho ta vừa vui vừa sợ lẫn lộn ở
trong ngựa. Trộm nghe vua Tống trẻ con, Thiên
tử thương xót, c̣n phong tước Công,
với nước nhỏ cũng hẳn thương
xót hơn. Xưa dụ 6 việc, đă được
tha bỏ. Nếu lấy lễ tự thân đến
chầu, ta lớn lên ở cung sâu, không tập cưỡi
ngựa, không quen phong thổ, sợ chết trên
đường. Con em từ quan Thái úy trở
xuống cũng đều cho là đúng. Sứ
giả thiên triều về, kính cẩn dâng
biểu bày tỏ, dâng thêm vật lạ”. Xuân nói:
“Vua Tống chưa đến 10 tuổi, cũng
sống ở cung sâu, cớ sao cũng đến
kinh sư?
Nhưng chiếu chỉ ở ngoài,
không dám nghe lệnh. Vả lại bốn người
chúng ta đi đến gọi ngươi, không dám
gọi người khác”. Bọn Xuân trở
về, Nhật Huyên sai Phạm Minh Tự, Trung tán
Đỗ Quốc Kế dâng biểu bày tỏ, nói:
“Thần vốn sức yếu nhược,
sợ đi đường khó khăn, uổng công
bỏ xương trắng, nhỡ không may th́
khiến cho Bệ hạ thương xót mà không có
ích cho thiên triều. Cúi mong Bệ hạ thương
nước nhỏ xa xôi, lệnh cho thần
được cùng vợ ở lại giữ
mạng sống này, để thờ Bệ
hạ trọn đời. Đấy là điều
rất may mắn của thần, cũng là cái phúc
lớn của sinh linh nước nhỏ
vậy”. Đem thêm phương vật cùng 2 con
voi thần phục cống.
Tháng 3 năm thứ 16, bọn Xuân
đến kinh sư trước, lưu Trịnh
Quốc Toản lại đợi ở Ung Châu. Xu
mật viện nói: “V́ Nhật Huyên không
chầu, nhưng sai sứ giả báo mệnh,
giả bộ từ chối, kéo dài thời gian,
xảo nịnh đă nhiều, lại trái
chiếu chỉ, có thể đem binh đến trên
cơi, sai quan lại hỏi tội”. Đế không
theo, lệnh cho sứ giả đến chầu.
Tháng 11, giữ sứ giả nước này là
Trịnh Quốc Toản ở lại Hội đồng
quán. Lại sai 4 người bọn Sài Xuân cùng
Đỗ Quốc Kế cầm chiếu thư
lại dụ Nhật Huyên đến chầu,
nếu quả thực không thể tự ḿnh vào
hầu, th́ đúc vàng để thay thân ḿnh, hai
viên ngọc châu để thay mắt ḿnh, kẻ
theo giúp th́ lấy hiền sĩ, phương kĩ,
con gái, thợ khéo mỗi nhóm 2 người để
thay dân chúng của ḿnh. Không như vậy, th́
sửa thành tŕ của ḿnh, để đợi
xét xử.
Tháng 10 năm thứ 18, lập An
Nam Tuyên úy ti, lấy Bốc Nhan Thiết Mộc
Nhi làm Tham tri Chính sự, Hành Úy sứ Đô Nguyên
suư, lập riêng quan lại giúp việc các
cấp bậc. Tháng đó, chiếu lệnh
lệnh v́ Quang Bính đă chết, con của y là
Nhật Huyên không xin mệnh mà lại tự
lập, sai sứ giả đến gọi,
lại lấy cớ mắc bệnh mà từ
chối, chỉ ra lệnh cho chú của y là Di Ái
vào hầu, cho nên lập Di Ái thay làm An Nam
Quốc Vương.
Tháng 7 năm thứ 20, Nhật Huyên
đưa thư cho B́nh chương A Lí Hải
Nha, xin trả sứ giả trở về, Đế
liền sai về nước. Bấy giờ, A Lí
Hải Nha làm Kinh Hồ Chiêm Thành Hành tỉnh B́nh
chương Chính sự, Đế muốn Giao
Chỉ giúp binh lương để đánh Chiêm
Thành, lệnh lấy ư này dụ y. Hành tỉnh
sai Ngạc Châu Đạt lỗ hoa xích Triệu
Chứ đem thư dụ Nhật Huyên. Tháng 10,
triều đ́nh lại sai Đào Bỉnh Trực
cầm ấn thư đến dụ nước
này. Tháng 11, Triệu Chứ đến An Nam.
Nhật Huyên bèn sai bọn Trung lượng Đại
phu Đinh Khắc Thiệu, Trung Đại phu
Nguyễn Đạo Học đem phương
vật theo Chứ vào hầu, lại sai bọn
Trung phụng Đại phu Phạm Chí Thanh,
Triều thỉnh lang Đỗ Băo Trực đến
tỉnh bàn việc, lại đưa thư đến
B́nh chương, nói:
Thêm quân 1 điều kiện: Chiêm
Thành thần phục nước nhỏ lâu ngày,
cha già chỉ làm việc lấy đức mà
vỗ về nước này, đến lúc thành
thân con côi, cũng nối theo chí cha. Từ lúc cha
già theo về Thiên triều, 30 năm đến
nay, dùng can qua thấy không tiện, quân lính băi
bỏ làm dân đinh, một ḷng cống nạp
thiên triều, tỏ rơ một ḷng không có hai mưu,
mong các hạ thương xót. Giúp lương
với 1 điều kiện: Thế đất nước
nhỏ gần biển, sản ra năm loại lúa
mọc không nhiều, một khi sau khi đại
quân đi rồi, trăm họ trôi dạt, thêm có
nước cạn, sớm no chiều đói,
ăn không đủ cấp; nhưng lệnh
của các hạ, vốn không dám trái, phỏng
theo châu Vĩnh An trên cơi Khâm Châu, đợi
chờ chuyển nạp. C̣n việc dụ kẻ
con côi này tự thân đến cửa khuyết,
ngoảnh mặt nhận giáo huấn của người
hiền thánh. Cha già thời c̣n sống, Thiên
triều thương xót, đặt ở ngoài cơi;
nay cha già chết rồi, kẻ con côi này lo
lắng, mắc bệnh đến nay, vẫn chưa
như thường, huống chi kẻ con côi này
lớn lên ở góc xa, không chịu nổi nóng
lạnh, không quen đất nước, khó đi
đường lối, xương trắng phơi
đường. Để bồi thần
của nước nhỏ qua lại, c̣n bị khí
độc thấm hại, kẻ chết hoặc
5,6/10, hoặc quá nửa, các hạ cũng đă
vốn biết. Chỉ mong hết sức bảo
vệ, truyền tấu Thiên triều, xem xét cho ư
sợ chết tham sống của lớp lớp
quan lại, họ hàng của kẻ con côi này. Há
chỉ kẻ con coi này nhận ban thưởng
đâu, mà c̣n sinh linh cả nước được
nhờ yên ổn, cùng chúc các hạ hưởng
phúc lớn trong trời lâu dài vậy”.
Tháng 3 năm thứ 21, Đào
Bỉnh Trực đi sứ về, Nhật Huyên
lại dâng biểu bày tỏ, lại đem thư
đến Kinh Hồ Chiêm Thành Hành tỉnh, đại
ư giống với thư trước. Lại theo
Quỳnh Châu An phủ sứ Trần Trọng
Đạt nghe của Trịnh Thiên Hữu nói:
“Giao Chỉ qua lại mưu tính với Chiêm Thành,
sai binh 20,000 người cùng 500 chiếc thuyền
để ứng cứu”. Lại đưa thư
đến Hành tỉnh, đại lược nói:
“Chiêm Thành là phiên thuộc của nước
nhỏ này, đại quân đến đánh,
thần bị buồn rầu, mà chưa từng dám
nói một lời, có lẽ thời nay người
ta thờ nước nhỏ cũng biết
rồi. Nay Chiêm Thành bèn làm phản trái, giữ mê
muội không phục, đấy gọi là không
biết trời biết người vậy.
Biết trời biết người, mà lại không
cùng biết trời biết người cùng mưu,
tuy trẻ con cao 3 thước cũng biết là không
qua lại, huống chi là nước nhỏ đây?
Mong Hành tỉnh xem xét”.
Tháng 8, em của Nhật Huyên là
Chiêu Đức Vương Trần Xán đem thư
đến Kinh Hồ Chiêm Thành Hành tỉnh,
tự nguyện nạp thuộc xin hàng. Tháng 11, Hành
tỉnh Hữu thừa Toa Đô nói: “Giao Chỉ
tiếp giới với các nước Chiêm
Lạp, Chiêm Thành, Vân Nam, Xiêm, Miến, có thể
đến đất này lập tỉnh; cùng
với ba đạo Việt Lí, Triều Châu, T́
Tan mà đồn quân trấn giữ, nhân đó
lấy lương hướng đất này
để cấp cho quân sĩ, trừ bỏ
được cái khổ của việc
chuyển chở đường biển”.
Tháng 2 năm thứ 22, Kinh Hồ
Chiêm Thành Hành tỉnh nói: “Trấn Nam Vương
ngày trước nhận chỉ đem quân đánh
Chiêm Thành, sai Hữu thừa Đường
Ngột Đáu đi nhanh đến Chiêm Thành,
hẹn cùng Hữu thừa Toa Đô đem binh
đến hội họp. Lại sai Lí vấn quan
Khúc Liệt, Tuyên sứ Tháp Hải Tát Lí cùng
bọn sứ giả của An Nam là Nguyễn
Đạo Học, cầm thư của Hành
tỉnh đến đ̣i Nhật Huyên vận lương
hộ tống đến Chiêm Thành giúp quân;
Trấn Nam Vương qua đường đến
gần cơi, lệnh cho Nhật Huyên đến
gặp”.
Kịp lúc quan quân đến
huyện Hành Sơn, nghe tin Nhật Huyên cùng anh là
Hưng Đạo Vương Trần Tuấn
đem binh chặn ở trên biên giới. Chốc
lát Khúc Liệt cùng Tháp Hải Tát Lí dẫn
bọn Trung lượng Đại phu Trần
Đức Quân, Triều tán lang Trần Tự Tông
của An Nam cầm thư của Nhật Huyên
đến, lời thư nói là từ nước
này đến Chiêm Thành đường thuỷ,
bộ đều không tiện, xin tuỳ theo
sức mà dâng nạp lương cho quân. Đến
lúc quan đến Vĩnh Châu, Nhật Huyên
gửi thư đến Ung Châu, nói: “Ngày
hẹn chuyển nạp khoảng vào tháng 10, xin
dự bị đinh phu trước đường,
đến ngày Trấn Nam Vương xuống xe,
mong là có thư đến báo”. Hành tỉnh
lệnh cho Vạn hộ Triệu Tu Kỉ đem
ư cũ đáp thư, lại đưa công văn
đến, lệnh phải mở đường
chuẩn bị lương thực, tự ḿnh
đón Trấn Nam Vương. Lúc quan quân đến
Ung Châu, Điện tiền Phạm Hải Nhai
của An Nam lĩnh binh đồn đóng ở
Khả Lan Vi để giúp các xứ. Đến
châu Tư Minh, Trấn Nam Vương lại
đưa thư đến nước này. Đến
Lộc Châu, lại nghe tin Nhật Huyên điều
binh giữ các đường ải Khâu Ôn, Khâu
Cấp Lĩnh, Hành tỉnh bèn chia quân làm hai
đường để đi. Nhật Huyên
lại sai Thiện trung Đại phu Nguyễn
Đức Dư, Triều thỉnh lang Nguyễn Văn
Hàn cầm thư đến Trấn Nam Vương,
nói: “Không thể tự ḿnh đến gặp ánh
sáng, nhưng trong ḷng hớn hở. V́ người
đi đến tiếp nhận chiếu chỉ nói
có lệnh riêng là: ‘Quân ta không vào cơi ngươi';
nay thấy cầu đường doanh trạm
của Ung Châu, nơi nơi tiếp nhau, thực là
sợ hăi, mong làm rơ ḷng trung thành, có ǵ thiết
sót mong tha thứ”. Lại đem thư đến
quan B́nh chương Chính sự, xin bảo vệ
sinh linh của nước này, tha miễn cho
lỗi trốn chạy.
Trấn Nam Vương lệnh cho Hành
tỉnh sai Tổng bả A Lí cầm thư cùng
bọn Nguyễn Đức Dư đến
dụ Nhật Huyên là nguyên nhân dấy binh
thực là đánh Chiêm Thành, không phải đánh
An Nam vậy. Đến huyện Cấp Bảo,
quan Quản quân của An Nam là Nguyễn Lộc
đồn binh ở châu Thất Nguyên, lại
từ huyện Thôn Lí đến Vạn Kiếp
đều có quân của Hưng Đạo Vương,
A Lí không đi được. Hành tỉnh
lại lệnh cho Vạn hộ Nghê Nhuận đến
do xét thật giả, thận trọng điều
quân, nhưng không được giết cướp
dân chúng của nước này. Chưa bao lâu,
bọn Tát Đáp Nhi, Lí Bang Hiến, Tôn Hữu nói:
“Đến ải Khả Li, gặp quân Giao đến
chống, Hữu đánh với chúng, bắt
được Quản quân Phụng ngự
của chúng là Đỗ vĩ, Đỗ Hữu,
mới biết Hưng Đạo Vương
quả thực lĩnh binh đón chặn”. Quan quân
qua ải Khả Li, đến ải Động
Bản, lại gặp quân giặc, liền đánh
bại chúng, tướng của chúng là Tần
Sầm bị thương chết.
Nghe tin Hưng Đạo Vương
ở ải Nội Bàng, lại đem binh đến
thôn Biến Trụ, dụ y thu quân mở
đường, đón bái Trấn Nam Vương,
không theo. Đến ải Nội Bàng, nhận
lệnh đem chỉ lệnh sai người đến
chiêu dụ y, lại không theo. Hưng Đạo Vượng
c̣n có hơn hơn 1,000 thuyền quân, đóng
gần Vạn Kiếp 10 dặm. Bèn sai quân sĩ
đến ven sông t́m thuyền, đến tụ
hội t́m ván gỗ đóng đinh, đặt băi
sân chế tạo, chọn những người quân
thủy, lệnh cho Ô Mă Nhi Bạt đô thống
lĩnh, mấy lần đánh với giặc,
đều đánh bại giặc. Bắt
được hai tờ văn vứt lại
ở bờ sông của giặc, rồi Nhật
Huyên đem thư đến Trấn Nam Vương
và Hành tỉnh B́nh chương, lại nói: “Lúc
trước chiếu lệnh nói là ‘quân ta không
vào cơi ngươi’, nay v́ cớ Chiêm Thành đă
phục lại phản, nhân đó phát đại
quân, đi qua nước thần, tàn hại trăm
họ, đấy là điều mà Thái tử
lầm lẫn, không phải là cái mà nước
thần lầm lẫn vậy. Cúi mong đừng
làm khác chiếu lệnh trước, đem đại
quân trở về, nước thần sẽ
chuẩn bị vật cống đến dâng,
trở lại như lúc đầu”.
Hành tỉnh lại đem thư
đến, cho là: “Triều đ́nh điều
binh đánh Chiêm Thành, thường đem thư
đến Thế tử sai mở đường
trữ lương, không ngờ làm trái mệnh
lệnh của triều đ́nh, sai bọn Hưng
Đạo Vương đem binh đón chống,
bắn thương quân ta, khiến cho sinh linh An
Nam bị hại là do nước nước làm
vậy. Nay đại quân đi qua nước ngươi
đánh Chiêm Thành, là lệnh của Nhà vua.
Thế tử biết rơ ư nước ngươi
theo về đă lâu, nên nghĩ đức
thẫm đẫm thương yêu của Hoàng
đế, lập tức lệnh rút quân mở
đường, dụ yên trăm họ, chăm
chú làm việc. Các chỗ mà quân ta đi qua,
phải không có một chút phiền nhiễu nào,
Thế tử nên ra đón Trấn Nam Vương,
cùng bàn việc quân. Không như vậy, đại
quân sẽ dừng ở An Nam mở phủ”.
Nhân đó ra lệnh sứ giả
của nước này là bọn Nguyễn Văn Hàn
đến. Đến lúc quan quân bắt
được dân chúng, lại gặp Nhật Huyên
đưa các quân Thánh dực đến, điều
hơn 1,000 chiếc thuyền, giúp Hưng Đạo
Vương đánh chống. Trấn Nam Vương
bèn cùng Hành tỉnh tự ḿnh đến bờ
đông, sai quân đánh chúng, giết thương
rất nhiều, bắt được hơn 20
chiếc thuyền. Hưng Đạo Vương
thua chạy, quan quân buộc bè làm cầu, vượt
bờ bắc sông Phú Lương. Nhật Huyên men
theo sông bày quân thuyền, lập rào gỗ,
thấy quan quân đến bờ, liền phát pháo
hô lớn đánh. Đến chiều, lại sai
bọn Nguyễn Phụng Ngữ đem thư
đến Trấn Nam Vương và Hành tỉnh,
xin đại quân rút lui. Hành tỉnh lại
đưa văn thư qua trách mắng giặc,
rồi tiến quân. Nhật Huyên bèn bỏ thành
trốn chạy, rồi lệnh cho Nguyễn
Hiệu Duệ đưa thư tạ lỗi, cùng
dâng phương vật, lại xin rút quân. Hành
tỉnh lại gửi thư chiêu dụ, rồi
đưa quân vượt sông, đóng trại
ở dưới thành An Nam.
Ngày sau, Trấn Nam Vương vào
nước này, cung điện trống không,
chỉ giữ lại các chiếu lệnh dụ hàng
và các tờ thư của Trung thư, xóa hủy
hết cả. Ngoài có tờ văn, đều là
của các tướng ngoài biên nam bắc của
nước này báo tin tức cho quan quân và các t́nh
huống chống địch. Nhật Huyên
tiếm xưng Đại Việt Quốc Chủ
Hiến Thiên Thể Đạo Đại Quang Minh
Hiếu Hoàng Đế Trần Uy Hoảng,
truyền ngôi vị cho Hoàng Thái tử, lập Thái
tử phi làm Hoàng hậu, trên bày tỏ biểu
chương Từ Thuận Thiên Hoàng Thái hậu,
ở trên dùng “Ấn Hạo Thiên Thành
Mệnh”. Nhật Huyên lại giữ ngôi Thái Thượng
hoàng, lập con của Nhật Huyên nối
nghiệp làm An Nam Quốc Vương, dùng niên
hiệu Thiệu Bảo.
Cung thất của nước này
có 5 cửa, cửa Ngạch Thư Đại Hưng,
cửa dịch Tả, Hữu, điện chính có
9 pḥng Thư Thiên An Ngự Điện, cửa chính
nam có Thư Triều Thiên Các. Lại có bảng
yết thị bày ra ở các chỗ nói:
“Tất cả quận huyện trong nước,
nếu có giặc ngoài đến, phải
liều chết mà đánh. Nếu sức không
chống nổi, phải vào đầm núi
trốn tránh, không được đón hàng”. Các
chỗ hiểm trở chống giữ của nước
này đều có kho tàng để cất giữ
đồ binh giáp. Quân của nước này
bỏ thuyền lên bờ vẫn đông, Nhật
Huyên dẫn họ hàng, quang lại đến Thiên
Trường, Trường An tụ tập đồn
đóng, Hưng Đạo Vương, Phạm
Điện Tiền lĩnh thuyền binh lại
tụ tập ở cửa sông Vạn Kiếp,
Nguyễn Lộc trú ở đường phía tây
Vĩnh B́nh.
Hành tỉnh chỉnh sửa quân sĩ
để chuẩn bị đuổi theo đánh
úp, cho nên binh của bọn Đường
Ngột Đái và Toa Đô từ Chiêm Thành đến,
hội hợp với đại quân. Từ lúc vào
đất này, đánh 7 trận lớn nhỏ,
chiếm đất dài hơn 2,000 dặm, 4 cung
thất của vua nước này.
Lúc đầu, đánh bại quân
của Chiêu Minh Vương, lại đánh Chiêu
Hiếu Vương của nước ấy,
nhiều liêu thuộc của chúng đều
chết, Chiêu Minh Vương trốn đi xa không
dám quay lại. Lại đến châu An Diễn,
Thanh Hóa, Trường An bắt được hơn
400 người là bọn con rể của Trần
Thượng Thư của nhà Tống đă
mất, bọn Lương Phụng Ngự cùng
Triệu Mạnh Tín, Diệp lang tướng
của Giao Chỉ. Vạn hộ Lí Bang Hiến, Lưu
Thế Anh đem quân mở đường từ
Vĩnh B́nh vào An Nam, mỗi 30 dặm lập
một trại, 60 dặm đặt một
trạm dịch, mỗi một trại một
trạm đặt 300 quân giữ ǵn tuần tra.
Lại lệnh cho Thế Anh
lập rào lũy, chăm chú xem xét các trại,
trạm dịch, rào lũy. Hữu thừa Khoan
Triệt dẫn bọn Vạn hộ Mang Cổ
Đái, Bột La Cáp Đáp Nhi theo đường
bộ, Lí Tả Thừa dẫn Ô Mă Nhi Bạt
Đô theo đường thủy, đánh bại
thuyền quân của Nhật Huyên, bắt Kiến
Đức Hầu Trần Trọng của nước
này. Nhật Huyên bỏ trốn, đuổi đến
cửa Giao Hải, không biết chỗ mà y đến.
Họ hàng của y là Văn Nghĩa Hầu, cha là
Vũ Đạo Hầu cùng con là Minh Trí Hầu,
con rể là Chương Hoài Hầu, Chương
Hiến Hầu, cùng bọn Tăng Tham Chính, con
của Tô Thiếu Bảo là Tô Bảo Chương,
con của Trần Thượng Thư là Trần
Đinh Tôn của nhà Tống theo nhau đem quân
đến hàng. Đường Ngột Đái, Lưu
Khuê đều nói là Chiêm Thành không có lương,
quân khó ở lại lâu.
Trấn Nam Vương lệnh cho
Toa Đô dẫn quân Nguyên đến các chỗ
Trường An t́m lương. Nhật Huyên đến
cửa biển An Bang, bỏ thuyền, đồ
áo giáp, binh khí, chạy trốn vào rừng núi.
Quan quân bắt được 10,000 chiếc
thuyền, chọn thuyền tốt để dùng,
c̣n lại đều đốt bỏ, lại
đổi theo nhiều lần ở trên thủy,
bộ. Bắt được dân chúng, nói là Thượng
hoàng, Thế tử chỉ có 4 chiếc thuyền,
Hưng Đạo Vương cùng con của y có 3
chiếc, Thái sư có 80 chiếc, chạy đến
phủ Thanh Hóa. Toa Đô cũng báo nói: Nhật
Huyên, Thái sư chạy đến Thanh Hóa. Ô Mă
Nhi Bạt Đô lấy 1,300 quân, 60 chiếc
thuyền chiến, giúp Toa Đô đánh úp quân Thái
sư của nước này. Lại lệnh cho
Đường Ngột Đái vượt
biển đuổi theo Nhật Huyên, cũng không
biết được nơi mà y đến.
Em của Nhật Huyên là Chiêu
Quốc Vương Trần Ích Tắc dẫn
họ hàng cùng vợ con, quan lại của ḿnh
đến hàng. Bèn sai bọn Minh Lí, Tích Ban cùng
đưa Chương Hiến Hầu, Văn Nghĩa
Hầu cùng em của y là Minh Thành Hầu, con
của Chiêu Quốc Vương là Nghĩa
Quốc Hầu vào chầu. Văn Nghĩa Hầu
lên được phía bắc, Chương
Hiến Hầu, Nghĩa Quốc Hầu đều
bị Hưng Đạo Vương giết, Chương
Hiến Hầu chết; Nghĩa Quốc Hầu thoát
thân trở lại trong quân.
Quan quân họp các tướng bàn
bạc nói: “Người Giao chống cự quan
quân, tuy nhiều lần thua chạy, nhưng thêm
quân càng nhiều; quan quân khốn khó, chết thương
cũng nhiều, quân ngựa Mông Cổ cũng không
thể phát huy kĩ thuật của ḿnh”.
Rồi bỏ kinh thành của nước này, vượt
bờ bắc sông, bàn bạc rút quân về đóng
đồn ở châu Tư Minh. Trấn Nam Vương
theo ư đó, bèn đem quân về. Ngày đó, Lưu
Thế Anh cùng hơn 20,000 quân của Hưng Đạo
Vương, Hưng Vũ Vương ra sức
đánh. Lại nữa quan quân đến sông Như
Nguyệt, Nhật Huyên sai Hoài Văn Hầu đến
đánh, đi đến sông Sách, bắc cầu
nổi vượt sông, quân của bọn Tả
thừa Đường Ngột Đái chưa
kịp vượt sông th́ th́ bị quân phục
trong trừng ra đánh, nhiều quan quân chết
đuối, ra sức đánh mới ra khỏi
bờ cơi. Đường Ngột Đái nhanh
chạy trạm về tấu lên. Tháng 7, Xu
mật viện xin điều quân để tháng
10 năm nay hội ở Đàm Châu, theo lệnh
Trấn Nam Vương cùng A Lí Hải Nha chọn
quân thống lĩnh.
Tháng giêng năm thứ 30, ban
chiếu quần thần của Hành tỉnh cùng bàn
bạc, bèn phát quân lớn đánh phương
nam. Tháng 2, ban chiếu dụ trăm họ, quan
lại của An Nam, mắng tội lỗi của
Nhật Huyên, nói các việc là y giết hại
chú của ḿnh là Trần Di Ái và không thu nạp
bọn Đạt lỗ hoa xích Bất Nhan
Thiết Mộc Nhi. Lấy bọn Trần Ích
Tắc tự đi ra trở về, phong Ích
Tắc làm An Nam Quốc Vương, ban ấn phù,
Tú Hoăn làm Phụ Nghĩa Công, để nhận
việc bày lễ cúng tế. Lại lệnh cho
Trấn Nam Vương Thoát Hoan, Tả thừa A Lí
Hải Nha đánh dẹp nước này, lấy
binh cấp cho Ích Tắc. Tháng 5, phát Mang Cổ
Thai chỉ huy quân sĩ hội với quân của
Ngạc Châu Hành tỉnh cùng đánh nước này.
Quan quân vào nước này, Nhật Huyên lại
bỏ thành trốn.
Tháng 6, Hồ Nam Tuyên úy ti dâng
tấu nói: “Nhiều năm đánh Nhật
Bản và dùng binh Chiêm Thành, trăm họ mệt
mỏi v́ chuyển chở, thuế dịch
phiền nhiễu, quân sĩ xông vào nơi chướng
lệ chết thương rất nhiều, kẻ
sống kêu than, 4 dân bỏ nghiệp, người
nghèo bỏ con để xin sống, kẻ giàu bán
của cung ứng mà phục dịch, khổ
sở treo ngược, nào chỉ 1 ngày. Nay
lại có việc Giao Chỉ, động đến
1,000,000 người, tốn đến 1,000 vàng, không
phải là thương xót quân dân vậy.
Vả lại trong thời gian phát
động, lợi hại không chỉ có 1,
lại nữa Giao Chỉ đă từng sai sứ
giả nạp cống xưng thần, nếu theo
lời xin của họ, để an ủi
sức dân, kế này hàng đầu vậy.
Nếu không thế, th́ nên cởi bớt tô
thuế của trăm họ, cất chứa lương
hướng, sửa binh giáp, đợi năm sau
khí trời thuận lợi, rồi mới phát
binh lớn cũng chưa bị trễ”. Quần
thần của tỉnh Hồ Quảng là Tuyển
Ca cho lời này là đúng, sai sứ giả vào
tấu, lại nói: “Lính trấn giữ của
tỉnh thần cả thảy hơn 70 chỗ,
nhiều năm đánh đẹp, quân tinh
nhuệ trong quân sơ khổ ở ngoài, kẻ c̣n
ở tỉnh đều già yếu, mỗi 1 thành
ấp, nhiều không quá 200 người. Trộm
sợ kẻ gian được dịp ḍ xét
biết thật giả. Năm trước B́nh chương
A Lí Hải Nha đi đánh, chuyển 30,000
thạch lương, dân đă mắc bệnh, nay
lại mắc gấp bội, quan lại không
dự sẵn, thu mua ở trong dân, trăm họ
sắp không chịu nổi cái khó này. Nên theo
lời nói của Tuyên úy ti, xin hoăn quân đánh
phương nam”. Xu mật viện đưa tin,
Đế liền ngày đó ban chiếu dừng
quân, thả quân sĩ trở về các doanh. Ích
Tắc theo quân trở về đất Ngạc.
Tháng giêng năm thứ 24, phát
1,000 Tân Phụ theo A Bát Xích đánh An Nam. Lại
ban chiếu phát 70,000 quân Mông Cổ, Hán, Khoán, 500
chiếc thuyền của tỉnh Giang Hoài, Giang Tây,
Hồ Quảng, 6,000 quân của tỉnh Vân Nam,
15,000 quân Lê của 4 châu ngoài biển, Hải
đạo Vận lương Vạn hộ Trương
Văn Hổ, Phí Củng Thần, Đào Đại
Minh chuyển 170,000 thạch lương, chia
đường để đi. Đặt ra Chinh
Giao Chỉ Hành Thượng thư tỉnh, Áo
Lỗ Xích làm B́nh chương Chính sự, Ô Mă
Nhi, Phàn Tiếp làm Tham tri Chính sự thống lĩnh
chúng, Trấn Nam Vương làm Tiết chế. Tháng
5, lệnh cho Tả thừa Tŕnh Bằng Phi quay
về Kinh Hồ Hành tỉnh trị quân. Tháng 6,
Xu mật viện lại tấu lên, lệnh cho Ô
Mă Nhi cùng Phàn Tham chính đem quân sĩ thủy,
lục cùng đi.
Tháng 9, lấy Quỳnh Châu lộ
An phủ sứ Trần Trọng Đạt, Nam
Ninh Quân dân Tổng quản Tạ Hữu Khuê, Diên
Lan Quân dân Tổng quản Bồ Tí Thành đem
thuyền quân giúp đánh Giao Chỉ, lệnh cho
theo đi đánh. Nhật Huyên sai Trung Đại
phu Nguyễn Văn Thông vào cống. Tháng 11,
Trấn Nam Vương đến châu Tư Minh,
giữ 2,500 quân ở lại, lệnh cho Vạn
hộ Hạ Chỉ thống lĩnh quân này, để
giữ đồ xe chở lương. Tŕnh
Bằng Phi, Bột La Cáp Đáp Nhi lấy 10,000 quân
Hán, Khoán theo đường phía tây đạo Vĩnh
B́nh, Áo Lỗ Xích lấy 10,000 theo Trấn Nam Vương
theo đường phía đông ải Nữ Nhi
để đi.
A Bát Xích lấy 10,000 người
làm tiên phong, Ô Mă Nhi, Phàn Tiếp lấy quân theo
đường biển, qua Ngọc Sơn, Song Môn,
cửa An Bang, gặp hơn 400 chiếc thuyền
của Giao Chỉ, đánh chúng, chém hơn 4,000
đầu, bắt sống hơn 100 người,
chiếm 100 chiếc thuyền, rồi đi nhanh vào
Giao Chỉ. Tŕnh Bằng Phi, Bột La Cáp Đáp
Nhi qua 3 cửa quan Lăo Thử, Hăm Sa, T́ Trúc,
cả thảy đánh 17 trận, đều
thắng. Tháng 12, Trấn Nam Vương đến
cảng Mao La, Hưng Đạo Vương
của Giao Chỉ bỏ trốn, nhân đó đánh
trại Phù Sơn, phá trại này. Lại lệnh
cho Tŕnh Bằng Phi, A Lí lấy 20,000 quân giữ
Vạn Kiếp, vừa sửa núi Phổ Lại cùng
rào gỗ Linh Sơn.
Lệnh cho Ô Mă Nhi đem quân
thủy, A Bát Xích đem quân bộ, đi nhanh
đến thành Giao Chỉ. Trấn Nam Vương
đem các quân vượt sông Phú Lương, trú
ở dưới thành, đánh bại quân giữ
thành. Nhật Huyên cùng con của ḿnh bỏ thành
chạy đến lũy ảm Nôm, các quân đánh
chiếm lũy này. Tháng giêng năm thứ 25,
Nhật Huyên cùng con ḿnh lại chạy vào
biển. Trấn Nam Vương đem quân đuổi
theo, đến cửa biển Thiên Trường,
không biết chỗ mà y ở, dẫn quân về
thành Giao Chỉ. Lệnh cho Ô Mă Nhi đem quân
thủy theo cửa Đại Bàng đón
thuyền lương của bọn Trương Văn
Hổ, bọn Áo Lỗ Xích, A Bát Xích chia
đường vào núi t́m lương. Nghe tin Giao
Chỉ tụ tập quân ở Cá Thẩm, Cá Lê,
Ma Sơn, Ngụy Trại, đem quân đến
đều phá chúng, chém hơn 10,000 thủ
cấp.
Tháng 2, Trấn Nam Vương
dẫn quân về Vạn Kiếp. A Bát Xích đem
quân tiên phong, chiếm ải, buộc cầu, phá
cửa Tam Giang, đánh chiếm 32 luỹ, chém vài
vạn thủ cấp, bắt được 200
chiếc thuyền, hơn 11,300 thạch gạo. Ô
Mă Nhi theo cửa Đại Bàng đi nhanh đến
Tháp Sơn, gặp hơn 1,000 thuyền giặc,
đánh phá chúng; đến cửa An Bang, không
thấy thuyền của Trương Văn
Hổ, quay lại Vạn Kiếp, lấy
được 40,000 thạch gạo. Đắp rào
gỗ Phổ Lại, Linh Sơn xong, lệnh cho các
quân ở đó. Các tướng nhân đó nói:
“Giao Chỉ không có thành ao có thể giữ, kho
lúa có thể ăn, thuyền lương của
bọn Trương Văn Hổ không đến,
vả lại khí trời đă nóng, sợ lương
hết quân mỏi, không thể ở lâu, hổ
thẹn với triều đ́nh, nên đem hết
quân mà về”. Trấn Nam Vương theo lời
này. Lệnh cho Ô Mă Nhi, Phàn Tiếp đem quân
thủy về trước, Tŕnh Bằng Phi đem
quân theo sau hộ tống họ. Tháng 3, Trấn
Nam Vương đem các quân trở về.
Thuyền lương của Trương
Văn Hổ đă đến trú ở Đồn
Sơn vào tháng 12 năm trước, gặp 30
chiếc thuyền của Giao Chỉ, Văn Hổ
đánh chúng, quân của ḿnh bị giết cướp
cũng ngang nhau. Đến biển Lục
Thủy, thuyền giặc thêm nhiều, Hổ không
thể chống, lại v́ thuyền nặng không
đi được, bèn ném gạo xuống
biển, đi nhanh đến Quỳnh Châu.
Thuyền lương của Phí Củng Thần
từ tháng 11 đă đến Huệ Châu,
gặp gió không đi được, trôi đến
Quỳnh Châu, hội với Trương Văn
Hổ. Thuyền lương của Từ Khánh trôi
đến Chiêm Thành, cũng đến Quỳnh
Châu. Cả thảy mất 220 quân sĩ, 11
chiếc thuyền, hơn 14,300 thạch lương.
Trấn Nam Vương trú ở
cửa Nội Bàng, quân giặc tụ hợp
lớn, Vương đánh phá chúng. Lệnh cho
Vạn hộ Trương Quân đem 3,000 quân tinh
nhuệ chặn sau, ra sức đánh ra khỏi
cửa. Ḍ xét biết Nhật Huyên cùng bọn
Thế tử, Hưng Đạo Vương chia hơn
300,000 quân, giữ cửa Nữ Nhi và Khâu Cấp
Lĩnh, liên tiếp hơn 100 dặm, để
chặn đường quân trở về.
Trấn Nam Vương bèn theo đường
huyện Đan Kỉ đi nhanh đến Lộc
Châu, t́m đường để ra, đến
châu Tư Minh. Lệnh cho Ái Lỗ dẫn quân
về Vân Nam, Áo Lỗ Xích đem các quân về
phía bắc. Nhật Huyên sai sứ giả đến
tạ, đưa người vàng để
tạ lỗi. Tháng 11, lấy bọn Lưu Đ́nh
Trực, Lí Tư Diễn, Vạn Nô đi sứ
đến An Nam, cầm chiếu dụ Nhật Huyên
đến chầu. Tháng 2 năm thứ 26,
quần thần của Trung thư tỉnh tấu
nói là nên dừng đánh Giao chỉ, nên thu
ấn phù của Hành tỉnh. Tháng 4, Nhật Huyên
sai bọn Trung Đại phu Nguyễn Khắc
Dụng đến cống phương vật.
Năm thứ 27, Nhật Huyên
chết, con là Nhật Tuấn sai sứ giả
đến cống. Tháng 11 năm thứ 27,
Trấn thủ Vĩnh Châu Lưỡng Hoài
Vạn hộ phủ Thượng Thiên hộ Thái
Vinh dâng thư, nói là việc quân rất trọng
yếu, v́ triều đ́nh thưởng phạt
không rơ, quân sĩ không theo lệnh, tướng sĩ
không ḥa, làm trái công việc, cái xấu này có
chỗ không xét được. Thư đến,
không báo. Tháng 9 năm thứ 29, sai bọn Lại
bộ Thượng thư Lương Tăng,
Lễ bộ Thượng thư Trần Phu
cầm chiếu lại dụ Nhật Tuấn vào
chầu. Chiếu nói: “Xét tấu biểu rơ
hết. Năm trước Lễ bộ Thượng
thư Trương Lập Đạo nói là Tăng
đến An Nam, biết được việc này,
xin đến dụ nước này đến
chầu. Nhân đó sai Lập Đạo đến
đấy. Nay tội lỗi của nước ngươi
đă tự bày rơ, trẫm lại sao tin lời.
C̣n như nói là ngươi đang chịu tang, và
sợ chết trên đường không dám đến
chầu, lại nữa há có người sống
an toàn lâu dài sao? Thiên hạ cũng có đất
không chết sao? Đấy là điều mà
trẫm chưa biết, ngươi nên chuẩn
bị báo tin. Chỉ lấy lời văn sáo
rỗng cống hằng năm, khéo che đậy
lừa dối, th́ nghĩa ở đâu?”.
Năm thứ 30, bọn Lương
Tăng đi sứ trở về, Nhật Tuấn
sai bồi thần là bọn Đào Tử Ḱ đến
cống. Quần thần triều đ́nh cho là
Nhật Tuấn cuối cùng không vào chầu,
lại bàn đánh y. Bèn bắt giữ Tử Ḱ
ở lại Giang Lăng, lệnh cho Lưu
Quốc Kiệt cùng Vương chư hầu là
Diệc Cát Lí cùng đánh An Nam, lệnh cho đến
Ngạc Châu bàn với Trần Ích Tắc. Tháng 8,
bọn B́nh chương Bất Hốt Mộc
tấu xin lập Hồ Quảng An Nam Hành
tỉnh, cấp cho 2 ấn, mua 1,000 hộc
thuyền người Đản, dùng quân 56,570 người,
350,000 thạch lương, đồ cho ngựa
20,000 thạch, muối 210,000 cân, trữ cấp
bổng lộc cho quan quân, cấp thủy thủ
là quân sĩ 2 thoi tiền, khí trượng cả
thảy hơn 270,000 chiếc.
Quốc Kiệt đặt 12 viên
quan trong trướng, chia đường thuỷ,
bộ cùng đi. Lại lấy Giang Tây Hành Xu
mật viện Phó sứ Hốt Lí Man làm Hữu
thừa, theo đánh An Nam, bọn Trần Nham,
Triệu Tu Kỉ, Vân Ṭng Long, Trương Văn
Hổ, Sầm Hùng cũng lệnh cho cùng làm
việc. Ích Tắc theo quân đến Trường
Sa, vừa lúc dừng binh nên dừng lại. Tháng
5 năm thứ 31, Thành Tông lên ngôi vị,
lệnh bỏ đánh dẹp. Sai Đào Tử Ḱ
về nước. Nhật Tuấn sai sứ
giả dâng biểu an ủi việc buồn
của nhà nước, cùng dâng phương
vật. Tháng 6, sai Lễ bộ Thị lang Lí
Diễn, Binh bộ Lang trung Thái Đăng cầm
chiếu đến vỗ về nước này,
đại khái nói: “Tiên Hoàng Đế vừa
bỏ thiên hạ, trẫm nối nghiệp
giữ ḍng đại thống, vừa mới lên
ngôi, đối đăi rộng lượng, không
kể gần xa. Dù là An Nam ngươi, cũng
được tha miễn, đă lệnh cho quan
Hữu tư băi binh, sai bồi thần Đào
Tử Ḱ về nước. Từ nay về sau,
phải sợ trời mà thờ nước
lớn, ngươi xét nghĩ việc này”.
Tháng 2 năm Đại Đức
thứ 5, bọn Thái phó Hoàn Trạch tấu nói là
sứ giả An Nam là Đặng Nhữ Lâm lén
vẽ bản đồ vườn cung uyển,
mua riêng các vật bản đồ địa dư
cùng sách cấm, lại sao chép các văn thư chép
về việc đánh thu Giao Chỉ, cùng chép riêng
sự t́nh quân đội ở biên giới phía
bắc và lăng núi, sai sứ giả cầm
chiếu lấy nghĩa lớn trách mắng. Tháng
3, sai Lễ bộ Thượng thư Mă Cáp Mă,
Lễ bộ Thị lang Kiều Tông Lượng
cầm chiếu dụ Nhật Tuấn, đại
ư nói: “Bọn Nhữ Lâm làm không theo phép
tắc, nên trị hết sức, trẫm v́ thiên
hạ mưu tính, lệnh có quan Hữu tư
thả về. Từ nay sứ giả phải
tuyển chọn; nếu có việc bày tỏ,
phải hết sức thận trọng. Trước
đă dùng lời văn sáo rỗng lừa
dối, việc này há có ích ǵ, chớ tự
tiện đổi bản đồ mà chuốc
lấy hối hận về sau”. Trung thư
tỉnh lại đưa thư cho 2 người
bọn Vạn hộ Trương Vinh Thực, cùng
đi với sứ giả trở về.
Vũ Tông lên ngôi vị, ban
chiếu dụ nước này, thường sai
sứ giả đến cống. Tháng 8 năm Chí
Đại thứ 4, Thế tử Trần Nhật
Thận sai sứ giả dâng biểu đến
chầu.
Tháng giêng năm Hoàng Khánh thứ
2, quân Giao Chỉ khoảng hơn 30,000 người,
quân mă hơn 2,000, cướp Vân Động, châu
Trấn An, giết cướp dân chúng, đốt
hủy kho tàng nhà cửa, lại hăm các chỗ
Lộc Động, Tri Động, bắt sống
dân chúng, gia súc cùng tiền của của dân chúng
rồi về, lại chia binh làm 3 đường
cướp châu Quy Thuận, đồn binh không rút.
Triều đ́nh bàn bạc sai Hồ Quảng Hành
tỉnh phát binh đánh chúng.
Tháng 4, lại có tin báo nói:
Thế tử của Giao Chỉ tự ḿnh lĩnh
binh đốt nhà dân, sở quan của châu Dưỡng
Lợi, giết cướp hơn 2,000 người,
lại phao tin nói: “Xưa châu Quy Thuận của
vùng Hữu Giang 5 lần cướp lộ Đại
Nguyên của ta, bắt hơn 5,000 dân chúng, Tri châu
Dưỡng Lợi là Triệu Giác bắt nhà buôn
của châu Tư Lăng ta, lấy 1 niễn vàng,
lấn hơn 1,000 khoảnh ruộng, cho nên đến
giết trả thù”.
Tháng 6, Trung thư tỉnh sai Binh
bộ Viên ngoại lang A Lí Ôn Sa, Xu mật
viện sai Thiên hộ Lưu Nguyên Hanh cùng đến
Hồ Quảng Hành tỉnh xét hỏi việc này.
Bọn Nguyên Hanh tự ḿnh đến các thôn Thượng,
Trung, Hạ Do, cùng xem đất đai, xét
hỏi người dân cày ruộng ở đấy
5 lần, lại sai Tri châu Tư Minh là Hoàng Tung
Thọ đến gạn hỏi y, bảo là do nô
t́ của Thái tử Thái sử Nguyễn Lộc gây
nên, nhưng cũng không biết có phải hay không.
Do đó gửi thư dụ nước An Nam,
đại khái nói: “Xưa nhà Hán đặt 9
quận, nhà Đường lập 5 quản, An
Nam thực là đất mà giáo hóa truyền đến.
Huống chi lại dâng bản đồ nhận
việc nạp cống, vốn phân rơ trên dưới,
dày qua mỏng lại, ân huệ vỗ về cũng
đến. Thánh triều nào có phụ ǵ nước
ngươi, nay hàm hồ tự tác không yên,
họa sẽ ập đến đấy. Tuy
đất Do Thôn nhỏ bé, nhưng có quan hệ
rất lớn đến đất đai của
nhà nước. Cùng lúc bị giết bị
bắt, đều là hộ tịch của
triều đ́nh, Hành tỉnh chưa dám tấu báo.
Nhưng chưa xét được ai thực là
kẻ chủ mưu không màng đến phép
tắc?”. An Nam gửi thư lại nói: “Vùng biên
chuột trộm chó cướp lén lút, tự tác
không yên, nước thần sao mà biết
được?”. Lại lấy tiền của
hối lộ cùng đến. Nguyên Hanh lại
gửi thư mắng An Nam nói dối không
thật, trả tiền hối lộ về,
lại nói: “Vàng, ngà voi của phương nam, nước
ngươi cho là vật qúy, nhưng sứ
giả lại không tham tiền của làm
trọng. Vật đem đến liền trả
về, mong hăy xét xét sự việc, làm rơ đến
báo cho ta”. Nhưng đường lối xa xôi,
gửi thư từ th́ lời lẽ giả
dối, rút cuộc chẳng ai biết được
chính xác.
Bọn Nguyên Hanh suy xét nguyên nhân
cho là: Nguyên nhân là người Giao từng
lấn chiếm đất biên giới Vĩnh B́nh,
lại lại bắt chước thành thói quen.
Vừa lúc nghe tin Thái tử Thái sử Nguyễn
Lộc là kẻ ngang bướng của Giao
Chỉ. Làm kế trước mắt, không
bằng sai sứ giả dụ An Nam, bắt
trả lại ruông đất của ta, trả
lại người dân của ta, vẫn lệnh
cho người nước này phải sửa
lại bờ cơi, xem xét kẻ chủ mưu, người
gây hấn giết cướp ở trên cơi, răn
bảo quan lại ở biên giới chớ
được ra lệnh xâm lấn. Liền đặt
trại chiêu mộ binh ở Vĩnh B́nh, đặt
quan lại thống lĩnh, cấp cho đồ dùng,
trâu, ruộng đất, từ nay tự cày
cấy làm ăn, lập ra đội ngũ, thưởng
phạt rơ ràng, lệnh cho họ nếu lúc nguy
cấp th́ đầu đuôi phải giúp nhau, như
thế th́ cơi biên mới yên ổn, măi giữ
vững không lo ǵ. Việc tấu lên, có chỉ
lệnh đến, phải đợi sứ
giả của An Nam đến, liền ra lệnh
dụ chúng.
Từ đầu năm Diên
Hữu đến cuối năm Chí Trị,
bờ cơi yên ổn, nạp cống không dứt.
Năm Thái Định thứ đầu, Thế
tử Trần Nhật Hoảng sai bồi thần
là bọn Mạc Tiết Phu đến cống.
Ích Tắc ở đất
Ngạc lâu ngày, nhận việc Hồ Quảng Hành
tỉnh B́nh chương Chính sự cũng lâu; vào
thời Thành Tông, ban cho hơn 200 khoảnh
ruộng; thời Vũ Tông tặng chức Ngân
thanh Vinh lộc Đại phu, ban thêm Kim tử
Quang lộc Đại phu, lại thêm chức Nghi
đồng Tam ti. Mùa hạ năm Thiên Lịch
thứ 2 thời Văn Tông, Ích Tắc chết,
thọ 76 tuổi, ban chiếu ban cho 5,000 xâu
tiền. Năm Chí Thuận thứ đầu,
tặng thụy là Trung Ư Vương.
Tháng 4 mùa hạ năm thứ 3,
Thế tử Trần Nhật Hỏa sai quần
thần 24 người là bọn Đặng
Thế Diên đến cống phương
vật.
[4]:
Tân Nguyên sử
/Liệt truyện /Ngoại quốc /An Nam
An Nam, xưa xưng là Hiệu Chỉ [tức là Giao
Chỉ], vốn là đất quận Nhật Nam
thời Hán [gồm cả quận Giao Chỉ,
Cửu Chân]. Năm Điều Lộ đầu
tiên thời Đường Cao Tông, đổi là
An Nam Đô Hộ Phủ, thuộc Lĩnh Nam Đạo,
tên gọi An Nam bắt đầu từ đấy.
Giữa niên hiệu Trinh Minh thời Hậu Lương
[thời Ngũ Đại], bắt đầu
bị thổ hào Khúc Thừa Mĩ chiếm
lấy, Lưu Ẩn của Nam Hán đánh
Thừa Mĩ, bắt lấy, chiếm lấy
đất này. Lại bị Tướng ở Ái
Châu là Dương Đ́nh Nghệ chiếm, tướng
trong Châu là Ngô Xương Ngập đoạt
lại, truyền đến em ông ta là Xương
Văn. Năm Khai Bảo thứ bảy thời
Tống, sai sứ giá triều cống, bắt
đầu phong Giao Chỉ Quận Vương,
từ đây bỏ làm ngoại vực. Sau bị
tướng của đất này là Lê Hoàn soán
đoạt, con cháu của Hoàn lại bị Đại
hiệu Lí Công Uẩn soán đoạt. Con cháu
của Công Uẩn là Hạo {gọi là Sơn}
[Tống sử gọi là Sảm] không có con,
lấy con gái là Chiêu Thịnh làm chủ việc
nước. Năm Thiệu Nhất thứ ba
thời Lí Tông, Chiêu Thịnh nhường ngôi
vị cho chồng là Trần Nhật Quưnh, họ
Trần rút cuộc có nước này. Năm
Cảnh Định thứ ba thời Tống, phong
Nhật Quưnh làm Thái Vương, lấy con
của ông ta là Quang Hạo làm Quốc vương.
Năm thứ bảy thời Hiến Tông, Đại tướng
Ngột Lương Hợp Thai đă dẹp yên
Đại Lư, đem binh hướng đến
Giao Chỉ, nhiều lần sai sứ giả
dụ hàng, đều không quay lại, do đó
chia đường đến đánh. Quân đến
sông Thao, Nhật Chiêu [tức là Trần Nhật
Quưnh] sai binh cưỡi voi đánh trả. Con
của Ngột Lương Hợp Thai là A
Thuật, mười tám tuổi, đem quân
bắn tên giỏi bắn voi ấy, voi kinh sợ
chạy lại giẫm xéo, quân nước này bèn
tan vỡ hết. Ngày sau, Nhật Quưnh cắt
đứt cầu Phù Lỗ ở bờ bên mà bày
trận. Đại quân không đo sông nông sâu,
men theo sông ngẩng trên không bắn tên, tên rơi
xuống nước mà không nổi, biết là
chỗ nông, liền lấy kị binh vượt
qua. Nhật Quưnh thua chạy, chém con họ hàng
của ông ta là Phú Lương Hầu. Ở trong
thành, bắt được ba sứ giả lúc trước,
đưa ra khỏi ngục, thân bị trói,
cởi dây trói ra, một sứ giả chết,
rồi phá thành này. Ở lại chín ngày, v́ khí
nóng rút quân, lấy hai sứ giả dụ
Nhật Quưnh theo về…
Năm thứ hai muơi mốt, lại sai Trung đại
phu Trần Khiêm Phủ cống chén ngọc, b́nh vàng,
dây ngọc trai, áo vàng cùng vượn trắng,
bồ câu xanh. Lúc đầu, Trấn Nam Vương
Thoát Hoan nhận mệnh đánh Chiêm Thành, sai Kinh
Hồ Hành tỉnh Tả thừa Đường
Ngột Trường, Hữu thừa Toa Đô
đem binh đến hội họp.
Hoàng Đế ngờ An Nam cùng Chiêm Thành qua lại
điệp văn, nay quân đi mượn
đường ở nước này, vả
lại yêu cầu Nhật Hối vận lương
đến Chiêm Thành giúp quân. V́ thế ra
lệnh Ngạc Châu Đạt lỗ Hoa xích
Triệu Chứ Chuy cáo dụ. Đến lúc quan
quân đến huyện Hành Sơn, nghe tin Nhật
Hối cùng binh của anh là Hưng Đạo Vương
Trần Tuấn chống giữ ở bờ cơi, nói
với Nhà vua là nước này đến Chiêm Thành
bờ sông đều không thuận tiện,
muốn dâng quân lương. Lúc đến Vĩnh
Châu, đưa văn thư ra lệnh Nhật
Hối sửa đường nghênh đón.
Đến châu Tư Minh, Vương [Trấn Nam Vương]
lại ra lệnh coi sóc. Đến Lộc Châu,
nghe tin Nhật Hối giấu binh ở huyện Khâu
Ôn, đường quan ải ở núi Khâu
Cấp, rồi chia quân hai đường cùng
tiến, Vạn hộ Lí La Hợp Đáp Ḥa, Chiêu
thảo sứ Tề Thâm theo đường phía
tây, đi huyện Khâu Ôn tiến lên, Khiếp
Tiết Tản Lược Nhi, Vạn hộ Lí
Bang Hiến đi đường phía đông, theo
núi Khâu Cấp tiến lên, Vương lấy
đại binh theo sau, lại sai Tổng vả A Lí
cáo dụ việc dấy binh, thực là v́ Chiêm
Thành, không v́ An Nam vậy.
Đến huyện Cấp Bảo, quân An Nam ngầm không
tiến, quân ở phía đông phá cửa Anh Nhi
của ải Khả Li, bắt được gián
điệp là Đỗ Vĩ đem chém. Đến
ải Động Bản, lại gặp quân An
Nam, đánh bại. Vừa gặp Tuấn [Hưng
Đạo Vương Trần Tuấn] ở
ải Nội Bàng, tiến binh đến thôn
Biện Trụ, dụ ông ta rút quân mở
đường để đón quân của Nhà
vua, không theo. Quan quân chia sáu đường đến
đánh, đến sông Vạn Kiếp, phá
hết cả ải. Tuấn c̣n tụ tập
thuyền hơn ngh́n chiếc, cách Vạn Kiếp
mười dặm mà bày trận, các cánh thủy
quân nhiều lần đánh đều cùng
thắng. Vương cùng Hành tỉnh quan tự ḿnh
đến bờ đông xem xét, đoạt
lấy thuyền hơn hai mươi chiếc,
Tuấn thua chạy. Quan quân nhân lúc nhàn rỗi
buộc bè làm cầu, vượt sông Phú Lương,
lúc đó quân ở phía tây cũng phá ải Chi Lăng.
Tháng giêng năm sau, Nhật Hối tự đem mười
vạn quân, cùng quan quân đánh lớn ở Bài
Than, Nguyên súy Ô Ma Nhi, Chiêu thảo sứ Nạp
Hải, Trấn phủ Tôn Lâm Đức đánh
bại. Nhật Hối rút về giữ, vượt
qua sông Lô, lại thua chạy, bèn ra lệnh
Nguyễn GIao Duệ dâng thư tạ tội,
lại xin rút quân. Đại quân vượt sông,
đắp lũy dưới thành An Nam.
Ngày sau, Vương vào đô của nước này,
biết Nhật Hối tiếm xưng Đại
Việt Quốc Chủ Hiến Thiên Thể Đạo
Đại Minh Quang Lí Hoàng Đế, truyền ngôi
vị cho Thái tử, dùng “Ấn Hạo Thiên Thành
Mênh”. Nhật Hối th́ giữ ngôi vị Thái
thượng hoàng. Kiến lập Quốc vương,
giao cho con của Nhật Hối, dùng niên hiệu
Thiệu Bảo. Ở trong năm cửa Quan
thất, tấm biển treo là cửa Đại Hưng,
bên trái cửa bên, Thư Thiên An Ngự Điện
có chín pḥng ở điện chính, Thư
Triều Thiên Các ở cửa chính nam. Lúc quân An
Nam bỏ thuyền lên bờ vẫn c̣n đông,
Nhật Hối dẫn họ hàng, quan lại đến
Thiên Trường, Trường An đồn đóng,
Tuấn lại lĩnh binh thuyền tụ tập
ở cửa sông Vạn Kiếp chỉnh sửa
quân để chống cự.
Gặp lúc Đường Ngột Niên, Toa Đô đốc
binh trở về từ Chiêm Thành, cùng đại
quân hội họp. Chia sai Hữu thừa Khoan
Triệt, dẫn Vạn hộ Mang Cổ Niên, Lí
La Cáp Đáp Nhĩ [Nguyên sử chép là Lí La
Hợp Đáp Nhi] theo đường bộ,
Tả thừa Lí Hằng dẫn Ô Mă Nhĩ [Ô Mă
Nhi] theo đường thủy, đánh bại
binh thuyền ở phía đông. Nhật Hối sai
em ḿnh là Văn Chiêu Vương Trần Trần
Duật Hầu, Trịnh Đ́nh Toản đánh
chống ở Nghĩa An, lại thua. Con anh của
ông ta là Chương Hiến Hầu Trần
lại thua ở Hải Khẩu, Kiện đem
binh của ḿnh hàng. Qua ba ngày, Trấn Nam Vương
đuổi phá Nhật Hối ở sônh Đại
Hoàng. Nhật Hối sợ, sai người trong
họ là Trung Hiến Hầu Trần Dương
xin ḥa, sai Cận thị là Đào Kiên dâng người
con gái đẹp của nước đến
trong quân, xin băi binh. Trấn Nam Vương sai
Ngải thiên hộ dụ nói: “Đă xin ḥa, sao
không cúi ḿnh đến bàn bạc”. Nhật
Hối không nghe, đến cửa biển An Bang,
bỏ mái chèo thuyền, đồ áo giáp, khí trượng,
trốn tránh ở trong hang núi. Quan quân bắt
được thuyền vạn chiếc, chọn
cái tốt để dùng, c̣n lại đều
đốt bỏ.
Nhật Hối chạy đến phủ Thanh Hóa, em
của ông ta là Chiêu Quốc Vương Trần
Ích Tắc đem người trong họ là Tú Viên
cùng vợ con, quan lại đến hàng. Nhật
Hối sai người trong họ là Trung Hiến
Hầu Trần Dương cùng Nguyễn Duệ
đến xin ḥa, Vương giữ lại trong
quân.
Các tướng thấy người An Nam tuy nhiều
lần thua, nhưng thêm quân thêm nhiều. Mưa
nắng bệnh dịch phát tác, chết, bị thương
cũng nhiều, Chiêm Thành đă không thể
đến, nhanh tính kế rút quân. Vương không
được rồi, dẫn quân về.
Đến sông Như Nguyệt, Nhật Hối sai binh
đuổi theo hậu quân, đi đến sông Sách,
chưa kịp vượt qua, tên trong rừng
bắn ra, Toa Đô, Lí Hằng đều trúng tên
lạc chết, quan quân ra sức đánh, che
chở Vương ra khỏi bờ cơi, quân
chết quá nửa. Nguyễn Duệ trốn trong
đầm cỏ, muốn bỏ đi, quan quân
bắt chém đi. Thất bại ấy là vào năm
Chí Nguyên thứ hai mươi hai vậy. Nghe
việc này, Hoàng Đế giận lắm, bèn băi
binh đi đánh Nhật Bản, phát động
lớn đánh An Nam.
Năm đó [năm Chí Đức thứ hai mươi
tư], Nhật Hối sai Nguyễn Nghĩa Toàn,
Nguyễn Đức Vinh vào cống, Hoàng Đế
giữ Nghĩa Toàn ở lại kinh sư. Hồ
Nam Tỉnh thần Ti Ca nói với Nhà vua:
“Nhiều năm đánh Nhật Bản cùng dùng
binh ở Chiêm Thành, trăm họ mệt mỏi v́
vận chuyển, quân sĩ trải qua chướng
khí phần nhiều chết, tổn hại,
quần thần than thở, bốn dân bỏ
việc làm. Nay lại có việc Giao Chỉ, kinh
động dân chúng trăm vạn, không thương
xót quân dân vậy. Nên cởi sức của trăm
họ, chứa lương thực, sửa giáp
binh, đợi đến năm thiên trời
dần thuận lợi, rồi mới phát động
lớn chưa muộn”. Chiếu năm nay ra
lệnh Ích Tắc tạm ở Ngạc Châu.
Năm sau, lấy A Bát Xích làm Chinh Giao Chỉ Hành
tỉnh Tả thừa, phát quân Mông Cổ, Hán,
Khoán ở ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ
Quảng bảy vạn người, thuyền năm
trăm chiếc, quân Vân Nam sáu ngh́n người,
quân Lê ở bốn châu ngoài biển một
vạn năm ngh́n người, Hải đạo
Vạn hộ Trương Văn Hổ vận lương
mười bảy vạn thạch, chia đường
đánh An Nam. Lấy Áo Lỗ Xích làm B́nh chương
Chính sự, Ô Mă Nhĩ, Phàn Tiếp làm Tham tri Chính
sự, đều chịu sự tiết chế
của Trấn Nam Vương. Nhật Hối sai
Trung đại phu Nguyễn Văn Thông vào
cống.
Tháng mười một, quân đến châu Tư Minh,
giữ binh hai ngh́n người để Vạn
hộ Hạ Chỉ, Trương Ngọc thống
lĩnh, lệnh Hữu thừa Tŕnh Bằng Phi
đem binh Hán Khoán vạn người đi
đường phía tây vào Vĩnh B́nh, Áo Lỗ
Xích đem vạn người theo Vương
đi đường phía đông vào cửa quan
Nữ Nhi. Tiếp cùng Ô Mă Nhĩ đem quân
thuyền đi đường biển, vượt
qua Ngọc Sơn, Song Môn, cửa An Bang, gặp hơn
bốn trăm thuyền giặc, đánh bại
được, chiếm lấy thuyền ấy,
Bằng Phi qua ba cửa quan Lăo Thử, Hăm Sa, T́ Trúc,
đánh mười bảy trận, đều
thắng. Trấn Nam Vương tiến đến
cảng Mao La, đánh trại Phù Sơn phá
được. Vương ra lệnh Tŕnh
Bằng Phi lấy binh hai vạn người
giữ cửa Vạn Kiếp, lại sửa hai hàng
rào ở núi Phổ Lại, Chí Linh. Ra lệnh Ô Mă
Nhĩ, A Bát Xích hội họp quân thủy bộ
đến gần thành An Nam. Vương đem các
quân vượt sông Phú Lương, đến dưới
thành. Nhật Hối chạy chạy đến lũy
Cảm Nam, Vương đánh chiếm được
thành.
Tháng giêng năm thứ hai mươi lăm, Nhật
Hối cùng con ḿnh chạy vào biển, đuổi
theo không kịp. Sai Ô Mă Nhĩ theo cửa Đại
Bàng đón thuyền lương của Văn
Hổ. Lúc thuyền của Văn Hổ đến
núi Vân Đồn, gặp quân giặc, giết
khoảng ngang nhau, đến biển Lục
Thủy, thuyền giặc thêm nhiều, nghĩ không
chống được, vả lại thuyền
gắn vào nhau không thể đi, bèn ném gạo
xuống biển, rồi tự ḿnh đi nhanh
đến Quỳnh Châu. Bấy giờ quan quân
thiếu lương, chia đường vào núi t́m
lương. Vương tự dẫn binh về
Vạn Kiếp. A Bát Xích đem tiền phong
chiếm cửa quan, buộc cầu, phá cửa Tam
Giang, đánh chiếm ba mươi hai lũy,
lấy được gạo hơn mười
một vạn ba ngh́n thạch. Ô Mă Nhĩ theo
cửa Đại Than đi nhanh đến Tháp Sơn,
gặp hơn ngh́n thuyền giặc, đánh
bại được, đến cửa biển
An Bang, đón thuyền lương của Văn
Hổ không đến, lại về Vạn
Kiếp, lấy được gạo hơn
bốn vạn thạch, chia binh đồn ở
hai hàng rào Phổ Lại, Chí Linh. Nhật Hối
sai anh họ là Hưng Vũ Vương Trần
Tung thường đến hẹn hàng, có ư kéo dài
thời gian quân ta. Buổi đêm, lại sai quân
liều chết đánh cướp doanh của các
tướng. Trấn Nam Vương giận, ra
lệnh Vạn hộ Giải Chấn đốt
đô thành của nước này, tả hữu
ngăn dừng lại.
Tổng quản Cổ Nhược Ngu nói: “Quân có
thể về, không thể giữ”. Các tướng
lại nói khí trời đă nóng, lương
lại hết, nên rút quân. Vương theo lời
ấy. Giao cho Tiếp cùng Ô Mă Nhĩ theo
đường thủy đi trước, bị
quân An Nam ngăn chặn, toàn quân thua chết
cả. Bằng Phi chọn quân tinh nhuệ che
chở Vương về, đến cửa quan
Nội Bàng, quân An Nam tụ tập lớn, may mà
Vạn hộ Trương Quân lấy quân tinh
nhuệ ba ngh́n người đi sau che chở, ra
sức đánh ra khỏi cửa quan. Ḍ xét
biết Nhật Hối chia binh hơn ba mươi
vạn, giữ cửa quan Nữ Nhi cùng núi Khâu
Cấp, trải dài hơn trăm dặm chặn
đường về. Các quân đánh vừa
đi, người An Nam ở chỗ cao bắn tên
độc,Trương Ngọc, A Bát Xích đều
chết. Vương theo đường huyện
Đan Kỉ đi nhanh đến Lộc Châu, ḍ
đường đến châu Tư Minh, ra
lệnh Áo Lỗ Xích lấy các quân về phía
bắc.
|