Người Đàn Bà Trên Tàu HQ 502 |
||
Chuyến
di tản của Dương Vận Hạm Thị
Nại, HQ 502,
một con tàu hỏng máy, đang trong thời kỳ
sửa chữa, chở theo trên 5000 người,
rời cầu tàu trong Hải Quân Công Xưởng
đêm hôm 29 tháng 4 năm 1975 với bao nhiêu là khó khăn,
hăi hùng, nguy hiểm.
Hầu như trên mười năm sau đó, đă
định cư ở Mỹ an toàn, nhiều đêm
ngủ, thần trí tôi vẫn bị trôi theo cơn
hốt hoảng kinh hoàng bởi chuyến đi này.
Trong những giấc mơ kinh dị đó, tôi
vẫn thấy rất rơ rừng người đặc
nghịt ở trên sàn tàu. Bầu trời th́ đen
thẫm, những ánh đèn xanh đỏ của
những chiếc trực thăng vần vũ,
nặng nề bay qua bay lại. Những đám cháy sáng
rực bùng lên ở mấy góc trời. Kho xăng Nhà
Bè trắng xoá, lấp loáng dưới ánh lửa
đang cuồn cuộn bốc cao từ Căn Cứ
Hải Quân .Những tiếng nổ oà vỡ bên tai, kéo
theo những tiếng rít của những trái đạn
rời ṇng từ hai khẩu đại bác của
Đặc Khu Rừng Sát. Con tàu ôm sát bờ lửa
đạn ấy để vào nhánh sông Soi Rạp, ḅ
ra cửa biển.
Sáng
ngày 30 tháng tư, con tàu liệt máy, buông trôi ở
cửa sông. Biển ở trước mặt, sóng
trắng xô xô từng đợt. Lại những
đợt máy bay từ phía Sài G̣n túa ra. Nhũng
chiếc trực thăng bay thấp, dọc theo hông tàu,
thấp hơn chiều cao của đài chỉ huy
chiến hạm. Cửa máy bay mở rộng. Chúng tôi
thấy trong ḷng máy bay chật ứ những đàn bà,
trẻ con. Mấy bà già hướùng về chiến
hạm, quy,ø cúi gập người, chấp hai tay mà
lễ. Trong khi đó viên phi công rà được
tần số của chiến hạm. Bằng một
giọng nói đầy khấp thiết :” Anh em
Hải Quân ơi, cứu chúng tôi với. Chúng tôi
được lệnh bay ra biển để đáp
xuống tàu Mỹ. Nhưng tới điểm hẹn
chỉ thấy biển mông mênh, tàu Mỹ đâu không
thấy, nên phải quay về. Tàu tôi chỉ c̣n 5 phút
xăng. Xin cứu chúng tôi, gia đ́nh tôi, mẹ tôi...”Không
cầm ḷng được, Hạm Trướng
Nguyễn văn Tánh và “ Ban Tham Mưu “ chấp
nhận những khó khăn, bất chắc, đồng
ư là cho trực thăng đáp xuống sân chiến
hạm. Sân chiến hạm đông đặc
những người, lùng nhùng những chiếc
mền đủ màu căng ra che sương gió qua
đêm. Nắng bắt đầu oi ả. Tất
cả phải giải toả cấp kỳ. Mọi người
phải xuống hết sân chiến xa. Sân tàu
trống vắng. Chiếc trực thăng từ
từ đáp xuống. Một chiếc. Lại một
chiếc nữa. . .
Tới
gần trưa ngày 30 tháng 4, ông Dương văn Minh
tuyên bố đầu hàng. Cả tàu mấy ngàn người
xốn xang, cuống quưt. Có những tiếng khóc
vỡ oà đâu đó. Một buổi họp khẩn
cấp để đi đến quyết định
: Bằng mọi giá phải thoát ra khỏi lănh
hải Việt Nam. Phải ra đi cho bằng
được. Toán thợ máy kết hợp lạ lùng
cố sửa chữa. Máy tàu nổ, một máy. Tàu ra
được ngoài khơi, lết đến gần
Côn Sơn, gặp được hạm đội ḿnh
ở đó. Lệnh từ
Soái Hạm HQ 3 chỉ thị cho HQ16 tới kéo
HQ502 đi. Những đêm lừ đừ ở ngoài
khơi, đoàn tàu vừa đi vừa đợi nhau.
Những chiếc ghe đầy ứ người sáp vào
chiến hạm. Không thể làm ngơ, tàu thả
thang giây, lại vớt thêm người. Đêm
xuống, hải đăng Vũng Tàu loé lên từng
đợt như thách thức, như mời gọi,như
những vẫy tay giă từ. Bờ biển quê hương
đấy mà giờ đă trở nên kinh khiếp,
chia ĺa, đớn đau. Ngày đêm, qua làn sóng điện
của đài Sài G̣n, không c̣n là những giọng nói
thân quen, mà là những lời kêu gọi chát chúa,
đe doạ của kẻ thù : “. . . quân, cán chính
của nguỵ quân Sài G̣n mau mau ra tŕnh diện “.
Những ngày thiếu thốn, chật chội, chia nhau
từng ngụm nước, từng nắm cơm chỗ
sống, chỗ khê, chỗ th́ thiu chua.
Tôi bỏ chiếc xe hơi nhỏ ở ngoài cửa
Hải Quân Công Xưởng, sát bên Bệnh Xá
Bạch Đằng. Tôi đi đầu, hướng
dẫn cả gia đ́nh trên mười người,
theo đoàn người lũ lượt chạy
bộ dọc theo chiều dài của Hải Quân Công Xưởng.
Vừa chạy vừa ngoái cổ nh́n trở lại
để kiểm soát đoàn “ rồng rắn”
của gia đ́nh. Chỉ sợ có người bị
lạc. Lạc là vô cùng khốn khổ, khó khăn. T́m
đến cầu tàu trước Bộ Tư Lệnh
Hạm Đội. Con tàu Thị Nại, HQ 502 nằm
đó, vị trí một. Bên ngoài con tàu này c̣n ba con tàu
khác cặp song song. Tất cả bốn con tàu xám
ngắt, hướng mũi phía hạ gịng. Người
từ phía sau tràn tới. Như đă hẹn, tôi
sẽ phải lên cho được con tàu này. Con tàu
do bạn thân cùng khoá với tôi làm Hạm Trưởng,
Hải Quân Trung Tá Nguyễn văn Tánh. Chúng tôi
cũng đă hùn tiền mua thêm nhiều gạo, ḿ và
những thức ăn khô chất sẵn ở tàu này.
Nước lấy tối đa. Lúc này nước thuỷ
triều dâng cao, bắt đầu xuống. Người
ken sát nhau như
gạch trên cầu tàu, nhích tới, nhích tới. Cái
thang dài độc nhất dựng dốc ngược
bên hông tàu. Tôi biết rằng khi khẩn cấp, chỉ
cần thả hai mối dây là cái thang tự động
tuồi xuống cầu tàu, lăn theo hai bánh xe gh́ trên
mặt đất, không một chút khó khăn. Tàu
sẽ tách bến dễ dàng. Nhưng bây giờ
rừng người đang ùn ùn tiến tới.
Những quân nhân, trai tráng th́ t́m mọi cách bám vào
thành tàu mà lên. Gia đ́nh tôi tất cả mười
ba người, con số t́nh cờ không vui, trong đó
có hai ông bà nhạc tôi ốm yếu, bốn đứa
con nhỏ dưới mười tuổi. Chúng tôi không
có cách nào khác là phải leo ngược cầu thang
nhỏ, dốc ngược này để lên tàu mà thôi.
Tôi lên đầu tiên, bế trên tay thằng con út hai
tuổi bụ sữa, nặng chĩu. Trên lưng
đeo một ba-lô quần áo và các thứ cần dùng.
Một tay sách cái va-ly nhỏ đựng đầy
giấy tờ, bản thảo và h́nh ảnh. Rất
nhiều h́nh ảnh. Cầu thang dốc và trơn, tôi
khiến trượt chân. Cái va-ly trở nên nặng
quá bung ra phía ngoài. Tôi buông tay, nắm vội vào
sợi giây cable, cái va-ly rơi ṭm xuống nước,
mất tăm. Hai tay ôm chặt thằng nhỏ trong ḷng.
Tôi cúi người xuống để gh́ lấy
mặt thang. Trong phút
chông chênh đó có bàn tay ai rất mạnh giữ
chặt lấy cánh tay tôi. Chỉ trong một sát na
kinh khiếp đó, tôi gượng lại được
và ḅ lên sàn tàu. Không biết cánh tay ấy của ai.
Ai đă cứu bố con tôi. Đặt con xuống sàn
tàu tim tôi c̣n đập bập bùng hồi hộp. Tôi
quay lại cùng các em tôi kéo vợ tôi, hai ông bà
nhạc lên tàu. Kiểm điểm lai “ quân số
“ gia đ́nh. Đủ cả. Tôi quay lại cầu
thang, đứng chân trước chân sau thật
vững trên sàn tàu. Một tay vịn vào hàng rào
chắn, một tay ch́a ra kéo những người
đang trèo ngược thang lên. Bao nhiêu bàn tay tôi
đă nắm. Có bao nhiêu bàn tay bè bạn thân quen,
nắm chặt tay nhau kéo lên, buông ra với những
nụ cười. Anh Trần văn Tâm, ( nhà văn
Trần quán Niệm ), anh Nguyễn hưng Quảng, anh
Nguyễn đa Phúc và bao nhiêu người nữa. Chúng
tôi xúm nhau ở đó để tiếp tay, đỡ
đần những người yếu đuối. Có
bao nhiêu là những bàn tay già nua, hay non dại của
những ai tôi chưa bao giờ gặp gỡ. Tất
nhiên chúng tôi cũng đă chuyền, bế bao nhiêu là
con trẻ ở tuổi các con tôi. Lúc kéo người
lên như thế, cũng là lúc tôi nh́n xuống
khoảng trống giữa thành tàu và cầu tàu, tôi
không c̣n thấy cái va-ly của tôi đâu cả. Nước
đă cuốn nó đi trôi nổi ở góc kẹt nào.
Khoảng trống dọc theo thân tàu chỉ độ
bốn mươi phân thôi, là bề dày của trái
độn cao-su. Cái khe này hun hút đen thẳm
dọc theo thân tàu dài hàng trăm thước. Dưới
sâu là mặt nước, những làn sóng nhỏ,
lấp lánh ánh đèn trôi đi, trôi đi. Tôi
biết sức nước trông thế nhưng
thật là mạnh mẽ. Chân cầu tàu lù xù
những vết x̣ hến, tác rưởi bám đầy.
Nếu ban năy tôi không
có cánh tay nào bám lấy, ngă xuống đây. . .Mới
thoáng nghỉ thế, toàn thân tôi như lạnh
buốt. Tôi nghĩ đến con tôi. Đứa con út
của tôi.
Rời
cầu thang quay gót trở lại với gia đ́nh, tôi
vừa quay gót, có tiếng người đàn bà
thảng thốt kêu lên : “ Con tôi, con tôi rơi . . .
rồi. Oái con ơi là con ơi...” . Tôi quay phắt
lại, người ta đen đặc, đang kéo người
đàn bà vào sàn tàu. Ở phía cầu thang người
vẫn cứ ùn tấn lên không dứt. Người
đàn bà khốn khổ, mất con như mê đi,
đang được người ta xúm lại
chữa chạy, giựt tóc, bôi dầu. H́nh như không
ai quan tam ǵ đến số phận của đứa
nhỏ vừa rời tay mẹ rơi xuống cầu
tàu, mất tăm. Vô phương cứu t́m. Mà ai c̣n
có th́ giờ đâu để ngó xuống cái khe
đen thẳm đó. Người càng lúc càng lên thêm,
đứng đen đặc cả sàn tàu. Không ai
biết, chẳng ai quan tâm đến cảnh huống
bi thảm vừa mới xẩy ra. Đêm mỗi lúc
mỗi sâu. Nỗi khốn khổ của người
mẹ mất con như bay theo, mất hút giữa đêm
đen mỗi lúc mỗi thêm kinh sợ.
Lên
được trên tầu, t́m gặp bạn tôi, HQ
Trung Tá Nguyễn văn Tánh, Hạm Trưởng, anh nhường
pḥng của anh cho gia đ́nh tôi. Tôi ngần ngại,
nhưng anh bảo : tôi c̣n cái pḥng nhỏ trên Trung Tâm
Hành Quân. Tạm yên tâm, tôi sát cánh cùng anh, tập
họp tất cả những quân nhân có mặt, t́m
mọi cách để đem tàu ra khơi. Người
th́ chật cứng ở sân boong chính, ở hầm
chiến xa, và la liệt cả hành lang, mọi chỗ.
Nhưng như anh Tánh sau này cho biết th́ “ nhân viên
cơ hữu trên 100 nay chỉ c̣n có 9 người...”
T́nh trạng chiến hạm th́ c̣n đang sửa
chữa : “ Hai máy chánh ráp xong, nhưng chưa thử
tại chỗ. Hai máy điện chưa được
ráp song song. Bơm nước ngọt và bôm cứu
hoả chưa ráp. B́nh cứu hoả CO2 c̣n nằm trên
Hải Quân Công Xương. Hai máy neo trước và
sau bất khiển dụng. Sàn tàu cắt mở
lối đem máy chánh lên chưa hàn lại”.
Biết bao nhiêu la trở ngại, khó khăn, nguy
hiểm. Khi khởi động được máy th́
tay lái bất khiển dụng. Giây cable lái bị
cắt đứt. Nói ra không hết những nguy
khốn của cuộc đi này. Bao nhiêu điều,
bao nhiêu h́nh ảnh vẫn đầy ắp trong trí nhớ
của tôi. Nhưng h́nh như tiếng kêu vô vọng,
thảng thốt của người đàn bà khốn
khổ đó đă thấm nhập sâu đậm vào
trí năo tôi. Lúc mờ lúc tỏ, nhưng tiếng kêu
đó không bao giờ mất được trong
tiềm thức của tôi. Khi có những sự tương
quan, h́nh ảnh ấy sẽ tự động
hiện ra mà lư trí tôi h́nh như không thể can
dự vào. Và sự việc đă được
xẩy ra rất t́nh cờ mới đây, gần 30 năm
xa cách.
PO
Box 888
Bài
viết có thể viết bằng tiếng Việt hay
tiếng Anh. Nếu không có ǵ trở ngại, cuốn
bút kư di tản của tác giả và những gương
thành công của con cái chúng ta di tản trên Dương
Vận Hạm Thị Nại, HQ 502 sẽ được
xuất bản để kỷ niệm 30 năm di
tản. Phan
lạc Tiếp Vài
hàng về nhà văn Phan lạc Tiếp. Cuối
năm 1979, khi làn sóng người vượt biển
lên cao, và thảm nạn của thuyền nhân trở
nên khủng khiếp nhất, ông đă cùng Giáo Sư
Nguyễn hữu Xương thành lập Uỷ Ban Báo
Nguy Giúp Người Vượt Biển ( Boat People SOS
Committee ). Liên tục trong 11 năm hoạt động,
Uỷ Ban này hợp tác với những tổ chức
nhân đạo thế giới, đem tàu ra Biển
Đông, cứu vớt được 3103 thuyền nhân,
và xin định cư cho hàng ngàn đồng bào
tại các quốc gia đệ tam. Mới đây
Quốc Hội Tiểu Bang California, Hoa Kỳ đă
gửi đến tặng nhà văn Phan lạc
Tiếp một bằng tưởng lệ, viết :
|
||