Trận
đánh cuối cùng, Sài G̣n thất thủ Trọng Đạt |
Sơ
lược t́nh h́nh Tháng
8/1949 Nga Sô có bom Nguyên Tử nhờ ăn cắp tài
liệu Mỹ, họ giúp Mao Trạch Đông đánh
thắng Quốc Dân Đảng và chiếm trọn nước
Tầu, Nga không c̣n sợ Mỹ và giúp Trung Cộng gây
cuộc chiến Triều Tiên từ tháng 6/1950 tới tháng
7/1953. Nga
và Mao giúp Việt Minh thành lập 5 Sư đoàn chính
qui từ 1950 tới 1951, họ trở thành quân tốt
của CS Quốc tế dưới danh nghĩa giành
độc lập. Quân Đội Quốc Gia được
thành lập cuối năm 1949, lương bổng do Chính
phủ trả tượng trưng c̣n lại do Viện
trợ Mỹ đài thọ, các công sở Pháp
được trao trả dần dần cho Việt Nam,
dưới áp lực Mỹ, Pháp đă phải trả
độc lập từ từ. Cuối
tháng 10-1950 Mỹ vội viện trợ quân sự cho Pháp
300 triệu đô la, Hàng không mẫu hạm Mỹ
chở tới Sài G̣n 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Người
Mỹ can thiệp vào Cuộc chiến Việt Nam từ
1949, 50 nhưng gián tiếp, năm 1953 Mỹ giúp Pháp 50%
quân viện, năm sau 1954 viện trợ Mỹ tăng
lên 78%. Sau Hiệp Định Geneve
1954, Quân Pháp rút vào Nam dưới vĩ tuyến 17
rồi về nước trong hai năm sau. Chính phủ
Mỹ giúp miền Nam thành lập Quân Đội
Quốc Gia mà sau năm 1956 gọi là Quân Đội
VNCH. Cuối thập niên 1950 và đầu thập niên
1960 Cuộc chiến miền Nam hăy c̣n là du kích, sang năm
1964 miền Nam có đảo chính , bên Nga sô chính
phủ ôn ḥa của Thủ Tướng Khrushchev bị
lật đổ, Brezhnev lên thay giúp Hà Nội tích
cực hơn trước.
Năm
1964, 65 lợi dụng t́nh h́nh chính trị miền Nam
bất ổn, Hà Nội đưa nhiều trung đoàn
chính qui vào tấn công mạnh, VNCH có nguy cơ sụp
đổ. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng
Westmoreland, Bộ Trưởng Quốc Pḥng McNamara đều
nói nếu Mỹ không đưa quân vào th́ miền Nam
sẽ mất trong ṿng 6 tháng. Giữa
năm 1965 TT Johnson bắt đầu đưa quân vào
VN, số quân được tăng dần cho tới
1968 lên tới hơn nửa triệu trong khi Cộng
sản Bắc Việt cũng gia tăng xâm nhập, Lê
Duẩn chấp nhận lấy sinh mạng 15, 20 cán binh
để giết một người lính Mỹ, đẩy
mạnh phong trào phản chiến. TT Johnson có nhiều
sai lầm, trước hết thay v́ phải Việt Nam
hóa chiến tranh từ 1965, 66 ông lại bắt lính quân
dịch, đẩy họ ra mặt trận .. nên số
tử ngày càng tăng do Lê Duẩn thí quân để
giết một lính Mỹ và đẩy mạnh phong trào
phản chiến. Tới
năm 1968 số tử phía Mỹ lên tới 35 ngàn, CSBV
chết hơn nửa triệu (1),
cuộc chiến của Johnson là cuộc chiến tranh
Giới hạn Limited war, không cho vượt biên
giới đánh qua Miên lào, không dám oanh tạc mạnh
BV v́ sợ Trung Cộng và Nga leo thang chiến tranh nên
đă không dứt điểm được cuộc
chiến. Mặc dù Mỹ có thắng lợi nhiều
về quân sự, gây tổn thất rất nặng cho
địch khoảng trên mấy trăm ngàn người
nhưng đầu năm 1968, trận Mậu Thân đă
làm tiêu tan hy vọng chiến thắng. Người dân
Mỹ không c̣n kiên nhẫn và chống đối
rất mạnh, đ̣i chính phủ phải rút khỏi
VN, gió đă đổi chiều. Đầu
năm 1969, tân Tổng thống Nixon t́m ḥa b́nh trong danh
dự, cuộc chiến có phần tàn khốc hơn trước
nhưng không phải để thắng CS mà để
chấm dứt chiến tranh rút bỏ Đông Dương
v́ phản chiến đă lên tột đỉnh. Tác
giả George Donelson Moss (trong Vietnam, An American Ordeal) gọi
cuộc chiến của Nixon là A war to end a war, một
cuộc chiến để chấm dứt chiến tranh. Nixon
được Johnson để lại căn nhà dột
nát khi phong trào phản chiến lên quá cao, các cuộc
biểu t́nh năm 1969, 70 đi tới chỗ bạo
động đổ máu và mọi kế hoạch quân
sự không thể thực hiện được.
Cuối tháng 1/1973, Hiệp định Paris được
kư kết, mục đích của Mỹ để rút
hết quân lấy tù binh về nước, phía CSBV
chờ Mỹ rút hết để Tổng tấn công
chiếm miền Nam, họ mở xa lộ Đông Trường
Sơn vận chuyển vũ khí và gia tăng xâm
nhập để hoàn thành giấc mộng xâm lăng. Sau
khi kư Hiệp định khoảng một năm,
Quốc Hội Dân chủ Mỹ bắt đầu
cắt giảm quân viện VNCH mỗi năm khoảng
50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973
xuống c̣n một tỷ tài khóa 1974 và xuống c̣n 700
triệu tài khoá 1975, con số này thực ra chỉ
bằng 500 triệu v́ dầu thô lên giá, tiền
mất giá (2). Quyết định
cắt giảm ô nhục của Quốc Hội
đưa tới t́nh trạng thê thảm, theo tiết
lộ của ông Cao Văn Viên (3)
hậu quả là năm 1974 không quân đă phải cho hơn
200 phi cơ ngưng bay v́ thiếu nhiên liệu, giảm
số giờ bay yểm trợ, huấn luyện 50%, thám
thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải
quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600
giang thuyền các loại nằm ụ. Đạn
dược chỉ c̣n đủ đánh tới tháng 4
/1975, năm 1972 ta xử dụng trên 69 ngàn tấn đạn
một tháng, từ tháng 7/1974 đến tháng 3/1975 ta
chỉ c̣n xử dụng khoảng 19 ngàn tấn một
tháng hoả lực giảm 70%. Tháng 2/1975 chỉ c̣n
đủ đạn tất cả các loại súng cho 30
ngày, tháng 4/1975 chỉ c̣n đủ đạn đánh
trong khoảng hai tuần (Sách đă dẫn trang 92). Trung
Tướng Trần Văn Minh, cựu Tư lệnh không
quân cho biết máy bay thiếu cơ phận thay thế,
thiếu nhiên liệu cất cánh nên phần nhiều năm
ụ. Trong
khi ấy theo Kissinger (4)
Hà Nội đă xin được viện trợ
của Sô viết tăng gấp bội. Tháng 12/1974,
một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội
lần đầu tiên kể từ sau ngày kư Hiệp
định Paris, Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor
Kulikov tới tham dự họp chiến lược
với Bộ chính trị BV, nay họ băi bỏ hạn
chế trước đây. Sô Viết đă chở vũ
khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng
gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga
khuyến khích BV gây hấn. Cuộc
chiến VN là một cuộc chiến viện trợ tiếp
liệu, cả hai bên đều không tự sản
xuất được vũ khí đạn dược
mà phải tùy thuộc vào quân viện nước ngoài,
bên nào nhiều tiếp liệu, vũ khí đạn dược
th́ bên đó thắng. T́nh
h́nh tháng 3 tới giữa tháng 4/1975 Cuối
tháng 3 năm 1975 Quân Khu I hoàn toàn thất thủ, Quân
khu 2 chỉ c̣n Phan Rang và Phan Thiết (trong
tổng số 12 tỉnh), đến ngày 4/4 hai tỉnh
này được sáp nhập vào Quân khu III. Trên
thực tế cả hai Vùng I và II coi như đă
mất vào tay CSBV, các Sư đoàn chủ lực
của Quân khu II và Quân khu I phần tan ră, phần đă
bị thiệt hại nặng nề tới 1/2 hay 2/3
lực lượng. Cuộc
triệt thoái Cao Nguyên đă khiến cho trên 75% chủ
lực của Quân đoàn II bị tan ră, Sư đoàn
23 BB và 7 Liên đoàn Biệt Động Quân mất
gần hết quân số. Sư đoàn 22BB vùng duyên
hải giao tranh dữ dội với các Sư
đoàn BV cuối tháng 3 tại B́nh Định, khi
được tầu Hải Quân đến cứu
tại Qui Nhơn chỉ c̣n khoảng 2,000 người.
Toàn bộ xe tăng và đại bác bị bỏ
lại. Các Sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân
đoàn I và Sư đoàn TQLC đă bị thiệt
hại nặng trên đường triệt thoái, 90
ngàn chủ lực quân của Quân đoàn chỉ có 16
ngàn được tầu vớt chở về miền
Nam trong đó khoảng 6,000 TQLC (45% quân số
của Sư đoàn) V́
TT Thiệu sai lầm cho tái phối trí lực lượng
đă làm cho t́nh h́nh xấu đi một cách nhanh chóng
tạo điều kiện thuận lợi cho Việt
Cộng chiếm nốt phần đất c̣n lại
của miền Nam.
Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương
hai Quân đoàn cùng triệt thoái giao lại đất
cho địch. CSBV
bèn chớp thời cơ tập trung toàn bộ lực
lượng tấn công chiếm Sài G̣n, họ dốc
toàn bộ lực lượng vào cái gọi là
“Chiến dịch Hồ chí Minh lịch sử”. Trong
chiến dịch tháng 3/1975, Bắc Việt đưa
vào hai Quân khu I và II tổng cộng 14 Sư đoàn
bộ binh, nay thấy thời cơ đă tới họ
đưa nốt 3 Sư đoàn Tổng trừ bị
ở ngoài Bắc (thuộc Quân đoàn I CSBV) vào
cộng với trên mười Trung đoàn độc
lập và đặc công đă đưa lực lượng
tham gia chiến dịch này lên tới khoảng 20 Sư
đoàn bộ binh chưa kể sự yểm trợ của
hơn hai chục Trung đoàn xe tăng, pháo binh, pḥng không,
công binh, chúng được vơ trang đến tận răng. Tài
liệu CS (hồi kư Văn Tiến Dũng, Đại
thắng mùa xuân) cho biết tại phiên họp ngày
25/3, Bộ Chính Trị Trung ương đảng
khẳng định thời cơ chiến lược
mới đă đến. Hà Nội có điều
kiện sớm hoàn thành cuộc Tổng tiến công xâm
lược, tập trung các lực lượng binh khí
kỹ thuật giải phóng Sài G̣n trước mùa mưa.
BV hối hả chuyên chở bằng cả ba phương
tiện đường thủy, đường bộ,
đường hàng không để chuyển vận vũ
khí, quân nhu, nhân lực … đánh một ván bài chót Tài
liệu CS (hồi kư Văn Tiến Dũng, các Chương
XI, XII, XIII) cho biết Quân khu 5 của BV tổ chức
một đoàn xe chở thẳng vào Nam bộ đạn
dược tiếp liệu cũng như chiến
lợi phẩm vừa lấy được của
VNCH, đoàn xe do Thiếu Tướng Vơ Thứ, phó Tư
lệnh Quân khu V chỉ huy. Trong khi ấy các sân bay Gia Lâm,
Vĩnh Phú, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng,
Kontum…nhộn nhịp khác thường, các loại máy
bay lên thẳng, vận tải, chở khách đều
được huy động để chở người,
súng đạn, vũ khí, chở sách báo phim ảnh,
tranh, nhạc .. mà c̣n chở hàng tấn bản đồ
Sài G̣n Gia Định vừa in xong ở xưởng in
Bộ Tổng Tham Mưu tại Hà Nội. Các bến sông
Hồng, sông Gianh, sông Mă, sông Hàn và các bến cảng
Hải Pḥng, Cửa Hội, Thuận An, Đà Nẵng
ngày đêm nhộn nhịp. Các mặt hàng quân sự
được bốc xếp kịp thời lên các
đoàn tầu vận tải của Bộ Giao Thông
vận tải và tầu Hải Quân nhân dân để
đưa vào Nam. Hà Nội huy động hết
mọi phương tiện thủy bộ, hàng không
để chuyển ra mặt trận một số lượng
quân đội và vũ khí lớn chưa từng có. Ngày
4/4/1975 Phan Rang và Phan Thiết được sáp nhập
vào Quân khu 3. Tại Phan Rang lực lượng VNCH
gồm 2 Trung đoàn bộ binh 4 và 5 thuộc Sư
đoàn 2, 1 lữ đoàn Dù, 1 liên đoàn Biệt
Động Quân, 4 tiểu đoàn Địa Phương
quân, Sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu
trục hạm, một giang pháo hạm, một hải
vận hạm. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư
lệnh tiền phương Quân đoàn III đóng
tại Tháp Chàm. Phan
Rang phố xá vắng tanh, dân di tản về Phan
Thiết rất nhiều, ngày 14/4 Việt Cộng
tấn công tuyến pḥng thủ Phan Rang tại phi trường,
một tiểu đoàn Dù đụng độ Việt
Cộng, địch bỏ xác hàng 100 tên. Ngày 15/4 Phó
Thủ tướng đặc trách Quốc pḥng
Trần văn Đôn và Tướng Toàn thị sát
mặt trận. Khi phái đoàn vừa về th́
Việt Cộng tấn công mạnh, địch tăng
cường Sư đoàn 325 và nhiều chiến xa. Quân
đội VNCH phản công dữ dội nhưng không
thể chống lại lực lượng địch
quá đông phải rút lui, Trung đoàn 4 và 5 tan ră. Khuya
ngày 16/4 chỉ có 200 người thoát ṿng vây, các sĩ
quan thuộc Bộ tư lệnh tiền phương và
Sư đoàn 6 Không quân bị bắt hết, các
đơn vị của VNCH tại đây coi như tan ră,
BV chiếm được 40 máy bay tại Phan Rang. Hai
hôm sau ngày 18/4 Phan Thiết cũng bị lọt vào tay
Cộng quân. Quân
đoàn 4 CSBV gồm các đơn vị đă chiếm
QK II VNCH theo Quốc lộ 1, Quốc lộ 20
tiến về Sài G̣n, gần giao điểm của hai
Quốc lộ này là Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh
cách Sài G̣n 60 cây số, Xuân Lộc giữ vị trí
quan trọng bảo vệ phi trường Biên Hoà. Phạm
vi trách nhiệm của Sư đoàn 18 BB là Long Khánh,
phụ trách an ninh phía Bắc căn cứ Long B́nh,
Quốc lộ 15 và căn cứ Không quân Biên Hoà. CSBV
huy động Sư đoàn 6, Sư đoàn 7, Sư
đoàn 341, Sư đoàn 1, Sư đoàn 325, Trung đoàn
biệt lập 95B. BV
đánh Xuân Lộc nhằm các mục tiêu. -Tấn
công tuyến pḥng thủ then chốt phía đông như
Xuân Lộc, Bà Rịa, Vũng Tầu. -Kéo
lực lượng VNCH ra ngoài để tiêu diệt,
mở cửa lớn để vào Sài G̣n. -Thu
hút lực lượng VNCH vào phía Đông để
đưa các lực lượng khác tới Bắc và
Tây Bắc Sài G̣n. Sư
đoàn 18 VNCH và CSBV hỗn chiến dữ dội
từ sáng 9/4 cho tới ngày 15/4 khi chiến đoàn 52
bị BV tràn ngập. Sáng ngày 16/4 Tướng Toàn cho
lệnh thả 2 trái bom Daisy Cutter tại Bắc Gầu
Giây tiêu diệt nhiều đơn vị bộ binh,
thiết giáp, pháo binh địch. Ngày 20/4 Tướng
Toàn bay trực thăng vào Xuân Lộc gặp Tướng
Đảo bàn kế hoạch lui binh. Sư đoàn 18BB rút
lui vào lúc đêm vừa đánh vừa rút, giữ
trật tự b́nh tĩnh, tối 20/4 Trung đoàn 48
về đến Long Giao đặt pháo binh yểm
trợ tổng quát cho cuộc lui binh, sau đó
truyền tin, công binh, pháo binh, quân y… rút theo. Sư
đoàn 18 thiệt hại 30% quân số, Địa phương
quân Nghĩa quân bị thiệt hại nặng Từ
ngày 8/4/1975 Lê Đức Thọ chủ toạ phiên
họp tại Lộc Ninh với các cán bộ thuộc
Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tổng tham mưu
CS. Thọ tuyên bố thành lập Bộ Tư lệnh
chiến dịch giải phóng Sài G̣n Chợ Lớn, Tư
lệnh Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Chính
ủy Phạm Hùng, Phó Tư Lệnh Thượng Tướng
Trần Văn Trà. Bộ Tư lệnh bàn kế
hoạch đánh chiếm Bộ TTM, dinh Độc
Lập, Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ đô,
Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, Phi trường
Tân Sơn Nhất. Những
ngày cuối tháng Tư đen 1975 Ngày
21/4, ông Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng
Thống tại dinh Độc Lập để rồi
mấy hôm sau lên máy bay ra khỏi nước. Phó
Tổng Thống Trần văn Hương lên thay, trong
khi ấy các nhà ngoại giao quốc tế ra sức
vận động hai bên để tránh cho Sài G̣n
khỏi trở thành băi chiến trường. Mấy hôm
sau Cộng quân bắn 4 trái hoả tiễn 120 ly vào Khánh
Hội làm cháy mấy chục căn nhà. Đài BBC nói
BV cảnh cáo chính phủ Trần Văn Hương
phải bàn giao cho một chính quyền do họ chỉ
định, người ta hiểu ngay đó là nhóm chính
khách thứ ba do ông Dương Văn Minh lănh đạo.
Ngày 27/4 lưỡng viện Quốc Hội nhóm họp
để biểu quyết việc trao quyền cho Dương
Văn Minh. Trung
Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn
3 VNCH tổ
chức pḥng thủ Sài G̣n trên 5 tuyến chính với
khoảng cách tới trung tâm thành phố xa hơn
tầm pháo của đại bác 130 ly VC đồng
thời bảo vệ các căn cứ quan trọng
tại Biên Hoà, Củ chi, Lai Khê, Long B́nh. (5) Phía
Tây Bắc là Tuyến Củ Chi với Sư đoàn 25
BB và hai Liên đoàn 8, 9 Biệt động quân.
Tuyến B́nh Dương ở phía Bắc với Sư
đoàn 5 BB. Tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc với
Sư đoàn 18 BB và lực lượng Xung kích Quân
đoàn III. Tuyến Vũng Tầu và Quốc Lộ 15
do Lữ đoàn 1 Dù cùng với một Tiểu đoàn
thuộc Sư đoàn 3 BB và các đơn vị
Thiết giáp, Địa phương quân, Nghĩa quân
của Tiểu khu Phước Tuy phụ trách. Tuyến
Long An phía Nam ngoài lực lượng Địa phương
quân, Nghĩa quân cơ hữu c̣n có Sư đoàn
22 BB phụ trách cộng với sự tăng cường
của Trung đoàn 12 thuộc Sư đoàn 7 BB, Trung
đoàn 14 thuộc Sư đoàn 9 BB và Liên đoàn
6 BĐQ. Năm
tuyến pḥng thủ chính của VNCH cũng trùng
với 5 hướng tấn công của năm Quân đoàn
CSBV:
Hướng Tây Nam là Đoàn 232, (Tư lệnh Trung Tướng
Lê Đức Anh, Chính Uỷ Thiếu Tướng Lê Văn
Tưởng) với các Sư đoàn 3, 5, 8, 9 BB và Sư
đoàn 27 đặc công cộng với 4 Trung đoàn
độc lập 16, 24, 88, 71 và Trung đoàn pḥng không
tiến từ sông Vàm Cỏ Đông và Hậu Nghĩa.
Quân đoàn 3, (Tư lệnh Thiếu Tướng Vũ
Lăng, Chính Uỷ Đại Tá Nguyễn Hiệp)
gồm các Sư đoàn 10, 316, 320 và 968 tiến về
phía Tây Ninh. Phía Bắc là Quân đoàn 1, (Tư lệnh
là Thiếu Tướng Nguyễn Hoà, Chính Uỷ
Thiếu Tướng Hoàng Minh Thi) gồm các Sư đoàn
312, 320B và 308 từ Lộc Ninh và Phước Long
tiến về khu tập trung ở phía Nam sông Bé. Quân
đoàn 4, (Tư lệnh Thiếu Tướng Hoàng
Cầm, Chính Uỷ Thiếu Tướng Hoàng Thế
Thiện) gồm các Sư đoàn 6, 7 và 341 sau khi
chiếm Xuân Lộc đang tiến về Trảng Bom. Mũi
sau cùng là Quân đoàn 2 (Tư lệnh Thiếu tướng
Nguyễn Hữu An, Chính Uỷ Thiếu Tướng Lê
Linh) gồm các Sư đoàn 3 Sao vàng, 304, 324B, và 325
tiến đánh Long Thành, Vũng Tầu, Phước
Lễ. (theo tác giả Nguyễn Đức Phương) Kế
hoạch CSBV như sau: Hướng Tây Bắc: Quân đoàn
3 và Địa phương quân Tây Ninh, Củ Chi, các
lực lượng đặc công biệt động,
tăng pháo tiến đánh căn cứ Đồng Dù,
tiêu diệt Sư đoàn 25 VNCH từ Củ Chi đến
Trảng Bàng rồi tiến đánh Tân sơn nhất,
phối hợp với Quân đoàn 1 đánh Bộ
Tổng Tham mưu sau đó tiến về Dinh Độc
Lập. Hướng Bắc và Đông Bắc Quân đoàn
1, được tăng cường Trung đoàn 95 (SĐ
325) cùng các lực lượng đặc công, pháo binh,
hoả tiễn.. bao vây căn cứ B́nh Dương,
Bến Cát rồi đánh BTTM, BTL các binh chủng G̣
gấp rồi tiến về dinh Độc Lập. Hướng
Đông Quân đoàn 4 tiến đánh Biên Hoà, phi trường
BH rồi tiến vào quận 1 Sài G̣n. Hướng Đông
Nam Quân đoàn 2 đánh Bà Rịa, Vũng Tầu để
chặn đường rút lui của VNCH, chiếm căn
cứ Nước Trong Long thành, pháo kích phi trường
Tân Sơn Nhất, chiếm Long B́nh. Hướng Tây, Tây
Nam Đoàn 232 và Chủ Lực quân Quân khu 8 đánh
chiếm Hậu nghĩa, rồi tiến đánh Biệt
Khu Thủ Đô, Tổng Nha Cảnh Sát, bến cảng
Bạch Đằng. Các Quân đoàn đều có
nhiệm vụ chiếm Dinh Độc Lập, Quân đoàn
nào tới trước th́ đánh trước. Quân
đội VNCH như chúng ta đă biết từ
cuối tháng 3-1975 đă mất một nửa lực lượng
chủ lực quân. Tại Quân khu III miền Nam chỉ
c̣n 3 Sư đoàn 25BB, 5BB, 18 BB và các đơn vị
di tản từ miền Trung về với quân số
thiếu hụt, tổng cộng vào khoảng 5 Sư
đoàn để đối đầu với
khoảng 20 Sư đoàn CSBV. Về lực lượng
hai bên, tác giả Nguyễn Đức Phương
(Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập) đă nói “Về
tương quan lực lượng giữa hai bên th́
QLVNCH chỉ có 6 sư đoàn để bảo vệ
thủ đô chống lại một lực lượng
đông đảo với quân số gần 20 sư
đoàn CSBV. Ba sư đoàn 7, 9 và 21 BB thuộc quân
đoàn IV QLVNCH không thể dùng để tiếp
ứng do điều kiện an ninh lănh thổ của vùng
đồng bằng sông Cửu Long” Tác
giả trích tài liệu CS như sau: “CS
cũng đă xác nhận cán cân lực lượng
trong chiến dịch này như sau: Ta:
4 quân đoàn 1, 2, 3, 4, và 232 bao gồm 15 sư đoàn
bộ binh, 5 lữ đoàn bộ binh biệt lập, 4
trung đoàn tăng thiết giáp và 6 trung đoàn đặc
công. Quân số tổng cộng khoảng 280 ngàn với
400 xe tăng và 420 pháo. Địch:
5 sư đoàn bộ binh 5, 18, 22 và 25, sư
đoàn TQLC, 2 lữ đoàn Dù, lữ đoàn 3 Kỵ
binh và 4 liên đoàn Biệt động quân. Quân số
tổng cộng khoảng 240 ngàn với 625 xe tăng
thiết giáp và 400 pháo” Quân
số của BV gồm 280 ngàn người
trong đó đa số là thành phần tác chiến, lính
VC không có lương nên không có các đơn vị hành
chánh tài chánh, họ cũng không có cứu thương
y tế nên nói chung thực lực đông đảo hơn
miền Nam. Sau khi chiếm được Quân Khu I và II
VNCH, Cộng quân chỉ để lại Địa phương
quân và du kích cai quản và đưa toàn bộ Chủ
lực quận vào chiến dịch. Họ dốc toàn
lực vào canh bạc cuối cùng này: 5 quân đoàn (1,
2, 3, 4 và 232) tổng cộng 15 Sư đoàn, công thêm trên
5 Trung đoàn độc lập và 6 Trung đoàn đặc
công toàn bộ lực lượng vào khoảng gần
20 Sư đoàn. Kissinger nói CSBV đưa kết lực
lượng vào Nam để trống hoàn toàn miền
Bắc, chỉ cần một trung đoàn TQLC là
chiếm được miền Bắc. Quân
số của VNCH là 240 ngàn
nhưng trong đó chỉ có khoảng 50 ngàn là lính nhà
nghề, c̣n lại là Địa phương quân, Nghĩa
quân và các thành phần không chiến đấu. BV được
CS Quốc tế tiếp viện đầy đủ vũ
khí đạn dược trong khi miền Nam đă
kiệt quệ v́ Quốc Hội Dân Chủ Mỹ
cắt viện trợ tới xương tủy, pháo
binh phải đếm từng viên đạn. Sau khi
đoàn quân di tản từ miền Trung kéo vào Nam,
Bộ Tổng tham mưu đă mở kho vét hết súng
đạn để tái trang bị. Ông Cao Văn Viên (6) cho biết đạn
dược chỉ đủ xử dụng trong
khoảng hai tuần lễ. Lực lượng hai bên trên
thực tế quá chênh lệch, ưu thế nghiêng
hẳn về phía Cộng quân. Từ
26/4/1975 CSBV đă bắt đầu tấn công vào Trường
Thiết Giáp Long Thành, căn cứ Nước Trong,
đặc công đánh Tân cảng, cầu xa lộ,
đài ra đa Phú Lâm nhưng thất bại bị
đẩy lui. Bắc Việt đă cho mở chiến
dịch Hồ Chí Minh từ 26/4, hai ngày trước khi
ông Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống,
họ không đếm xỉa ǵ tới việc thương
thuyết. Sáng
ngày 27/4 Sư đoàn 3 BV tấn công chiếm Phước
Lễ, Lữ đoàn Dù rút về Vũng Tầu, Sư
đoàn 18 được lệnh lui về giữ
Trảng Bom. Phía Tây các căn cứ dọc theo Vàm
Cỏ Đông lần lượt bị chiếm. CSBV pháo
phi trường Biên Hoà dữ dội, Sư đoàn 3 Không
quân phải di về Tân Sơn Nhất và Cần thơ.
Phía Tây Nam Đoàn 232 CSBV (gồm 3 Sư đoàn)
cắt Quốc lộ 4 nhiều nơi để
chận viện binh từ Quân khu 4, phía Bắc Quân
đoàn 1 BV tiến về Thủ Đầu Một, phía
Tây Bắc Quân đoàn 3 BV cắt Quốc lộ 1 và 21
để chặn đường rút của Sư đoàn
25 BB. Chiều
ngày 28/4 ông Dương Văn Minh tuyên thệ nhậm
chức Tổng thống tại dinh Độc Lập,
chừng một tiếng sau, phi công nằm vùng trung úy
Nguyễn Thành Trung hướng dẫn năm phi cơ
A-37 của VNCH do BV chiếm được ném bom phi trường
Tân Sơn Nhất rung chuyển trời đất
khiến dân chúng Đô Thành hốt hoảng. Tối hôm
ấy BTL Quân đoàn 3 di chuyển từ Biên Hoà về
G̣ Vấp. Tại
Bộ TTM, từ chiều 28/4/1975 Đại tướng
Cao Văn Viên và Chuẩn Tướng Thọ đă ra
đi. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu
trưởng rời BTTM trưa 29/4. Trung Tướng
Nguyễn Văn Minh Tư lệnh Biệt khu Thủ
đô cũng đă bỏ đi. Đến trưa 29/4
các Tướng có thẩm quyền tại BTTM đă ra
đi gần hết, các ông lớn đều đă nh́n
xa trông rộng, họ biết trước Quốc
Hội Dân Chủ Mỹ cắt quân viện xương
tủy để bỏ miền Nam. Ông Dương Văn
Minh cử một số Tướng và cựu Tướng
lănh vào làm việc tại BTTM: Trung Tướng Vĩnh
Lộc Tổng tham mưu trưởng, Chuẩn Tướng
Nguyễn Hữu Hạnh phụ tá, Lâm Văn Phát Tư
Lệnh Biệt Khu Thủ đô. Chiều 29/4 Tướng
Vĩnh Lộc họp các Tướng lănh, sĩ quan cao
cấp c̣n sót lại và kêu gọi cố gắng hoàn
tất trách nhiệm. Tối 29/4 ông Dương Văn
Minh vẫn kêu gọi trên đài phát thanh, lời kêu
gọi lập đi lập lại suốt đêm. “Các
vị Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn hăy
giữ vững vị trí và chờ lệnh mới” Tân
Tổng Tham mưu trưởng Vĩnh Lộc lớn
tiếng chỉ trích Thiệu và kêu gọi anh em binh sĩ
giữ vững pḥng tuyến. Từ
4 giờ sáng ngày 29/4 Bộ TTM, phi trường Tân Sơn
Nhất, BTL Hải Quân bị pháo kích dữ dội.
Cộng quân chiếm được Nhơn Trạch
đặt hai khẩu 130 ly và bắn 300 quả vào Tân Sơn
Nhất gây nhiều thiệt hại, các băi đậu
phi cơ, bồn chứa nhiên liệu, kho đạn
bị trúng pháo kích gây nhiều đám cháy lớn. Sư
đoàn 325 BV chiếm Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ,
tiến về Cát Lái. Sư đoàn 304 chiếm căn
cứ Nước Trong. Trong
khi ấy ông Dương văn Minh cử ba người
sứ giả đến trại David tại Tân Sơn
Nhất để thương thuyết ngưng bắn
với phái đoàn Quân sự VC nhưng bị Đại
tá CS Vơ Đông Giang bác bỏ. Tại Biên Ḥa lực lượng
xung kích Quân Đoàn III VNCH của Chuẩn Tướng
Trần Quang Khôi (gồm các Chiến đoàn 315, 318, 322)
vẫn giữ được pḥng tuyến. Buổi
chiều Bộ Tư lệnh Hải quân và Không quân di
tản. Một Liên đoàn BĐQ tại Bến Tranh
Bắc Mỹ Tho được lệnh trực thăng
vận về Cần Đước ngăn chận
Việt Cộng trên liên tỉnh lộ 5A nhưng không có
trực thăng, do đó Chợ Lớn được
coi như bỏ ngỏ. Đến tối Cộng quân
đụng độ với các Chiến đoàn 315, 322
tại hai hướng Đông Bắc thành phố. Trung
Tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng tham mưu trưởng
lệnh cho Sư đoàn 18 BB rút về giữ khu
vực nằm giữa Thủ Đức và nghĩa trang
Quân đội. Phía
Bắc, căn cứ Lai Khê của Sư đoàn 5BB
bị pháo kích dữ dội, quận Bến Cát bị
tấn công. Phía Tây 2 Liên đoàn 8, 9 BĐQ bị
thiệt hại nặng, CSBV bỏ xác cả trăm người
cùng 18 xe tăng bị bắn cháy, Quốc lộ 1
giữa Sài G̣n và Củ Chi bị gián đoạn. Sư
đoàn 22 BB vẫn làm chủ được t́nh h́nh
phía Nam, mặc dù bị tấn công. Chiều
29/4 Toà Đại sứ Mỹ bắt đầu di
tản bằng trực thăng, sau 19 giờ bay liên
tục 80 trực thăng đă chở đi được
hơn 1,000 người Mỹ và khoảng 6,000 người
Việt Nam ra ngoài hạm đội. Ngày 30/4 Trung đoàn
24 CSBV (SĐ 10) giao tranh ác liệt với quân Dù tại
Ngă Tư Bẩy Hiền và Lăng Cha Cả, BV bị
thiệt hại nặng tới 50% quân số. Cộng quân
tấn công trại Hoàng Hoa Thám, BTL không quân, căn
cứ Sư đoàn 25 BB VNCH thất thủ, Chuẩn Tướng
Lư Ṭng Bá bị bắt. Cộng quân xâm nhập Ngă Tư
Bẩy Hiền, trong ṿng 15 phút có 6 chiến xa
bị Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù bắn hạ, lính
BV bị chận đánh phải rút khỏi ngă tư Bẩy
Hiền. Theo
Tướng Hoàng Lạc, Đại tá Hà Mai Việt
(7): TT Dương Văn Minh lại cử người
tới Tân Sơn Nhất để thương
thuyết với phái đoàn CS xem có vớt vát
được tí nào không nhưng họ vẫn một
mực đ̣i phải buông súng đầu hàng nếu
không sẽ pháo kích ồ ạt vào Thủ Đô, Sài G̣n
bây giờ đang nằm trong tầm pháo của quân thù. Cộng
quân đă vào sát thành phố, thấy không hy vọng
cứu văn được t́nh thế, ông
Dương Văn Minh bèn lên tiếng trên đài phát
thanh vào lúc 10 giờ 30 sáng kêu gọi các vị Tướng
lănh, các cấp chỉ huy QĐVNCH hăy liên lạc
với các đơn vị Cộng Hoà Miền Nam nơi
gần nhất giao nạp vũ khí thực hiện ngưng
bắn tại chỗ để tránh đổ máu vô ích.
Khi ấy tiếng súng trận khắp nơi đều
đă im bặt. Khi
có lệnh ngưng bắn, Thiếu Tá Phạm Châu Tài,
Chiến đoàn trưởng Biệt Cách Dù lấy xe
Jeep vào Bộ TTM, lính gác cho biết ông Vĩnh Lộc
đă ra đi từ 6 giờ sáng, các Tướng lănh,
sĩ quan cao cấp không c̣n ai. Thiếu tá Tài bèn
gọi về phủ Tổng Thống xin nói chuyện
với Đại Tướng Dương Văn Minh. Tài
nói các chiến sĩ của ông đang tử chiến
với VC để bảo vệ BTTM th́ có lệnh ngưng
bắn nhưng địch vẫn tiến vào, BTTM không
c̣n ai, xin Tổng thống quyết định. “Tướng
Minh trả lời “các em chuẩn bị bàn giao đi”. Thiếu
tá Tài ngạc nhiên hỏi lại “Bàn giao là như
thế nào thưa Đại Tướng, có phải là
đầu hàng không? Tướng
Minh đáp “Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng
Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc
Lập”. Nghe
Tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài
nói ngay “Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào
Dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu
Tổng Thống”. Tướng
Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp “Tổng
thống phải chịu trách nhiệm trước hai ngàn
cảm tử quân đang tử chiến với Cộng
quân ở Bộ Tổng tham mưu” Tướng
Minh trả lời “Tuỳ các anh em”.(8) Ông
Dương Văn Minh tuyên bố ngưng bắn th́ Lê
Đức Thọ ban lệnh cho các Quân đoàn BV không
chấp nhận đ́nh chiến và cứ tiến
thẳng vào Sài G̣n. Cộng quân tiến vào Thủ
Đô đang bỏ ngỏ làm bốn ngả: Cánh
thứ nhất từ Long Khánh theo xa lộ Biên Hoà,
thứ hai từ Củ Chi qua Ngă Tư Bẩy Hiền,
thứ ba từ Long An kéo lên qua ngả Phú Lâm Chợ
Lớn, cánh cuối cùng từ B́nh Dương theo xa
lộ Đại Hàn vào Hàng Xanh. (theo hồi kư Văn
Tiến Dũng) Báo
Sài G̣n Giải Phóng năm 1976 nhân ngày kỷ niệm
chiến thắng 30/4 cho biết đoàn quân vào dinh
Độc Lập trước nhất là cánh từ Long
An, họ có chụp h́nh những chiếc xe lội nước
PT-76 vào sân dinh và bộ đội thiết giáp CS trên
xe nhẩy xuống. Theo tài liệu của kư giả
ngoại quốc hoặc do lời kể của các viên
chức chính phủ trong dinh Độc Lập th́ cánh
quân từ Biên Hoà cùng với các xe T-54 đă tiến
chiếm dinh Độc Lập trước tiên. Báo
Sài G̣n Giải Phóng và Quân Đội Nhân Dân năm
1976 cho biết người đi đầu là một viên
đại uư, được các viên chức tiếp
đón tại cửa vào, y hỏi thăm đường
lên lầu rồi vội kéo cờ vàng của VNCH
xuống để treo cờ Mặt trận lên để
chứng tỏ giang sơn này, đất nước này
đă hoàn toàn thuộc về CS. Quân đội CSBV
bắt Dương Văn Minh phải lên đài phát
thanh tuyên bố đầu hàng. Theo lời kể
của cựu dân biểu Lư Quí Chung th́ cả những
sĩ quan cấp úy BV khi mới vào dinh cũng quát tháo
những người cầm đầu chính phủ và
gọi họ bằng anh: “Các anh phải hàng hết” Sau
khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng th́ các mặt trận quanh Sài g̣n đều im
tiếng súng chỉ c̣n một vài trận lẻ tẻ
như tại Hố Nai, bốn tiếng sau lệnh đầu
hàng, Thiếu Uư Tư, Biệt kích Dù và năm người
lính thân tín dùng súng chống chiến xa M-72 phục kích
bắn cháy, lật một xe Jeep, một T-54, 2 xe
Molotova… rồi chạy thoát hết. Nghe
lệnh đầu hàng Thiếu Tướng Phạm Văn
Phú Tư Lệnh Quân đoàn II và Chuẩn Tướng
Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5 tự sát. Quân
khu IV vẫn c̣n nguyên vẹn, Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam không cho giật sập cầu Long An như
Tỉnh trưởng đề nghị. Thiếu
Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó tự
tử chiều tối 30/4, hôm sau 1/5 Tướng Nam
tự sát lúc 7 giờ rưỡi sáng, Chuẩn tướng
Trần Văn Hai Tư lệnh Sư đoàn 7 cũng
tự sát. Ngoài
ra có nhiều người tuẫn tiết trước
ngày tàn của đất nước như Thiếu tá
Đặng Sĩ Vinh thuộc BTL Cảnh sát Quốc gia
tự sát lúc 2 giờ chiều 30/4 cùng vợ và 7 người
con tại nhà riêng. Trung tá Vũ đ́nh Duy, Trung tá
Nguyễn Văn Hoàn thuộc Đơn vị 101 tự
sát… Nhiều quân nhân Biệt kích Dù cũng như
nhiều binh chủng khác đă mở lựu đạn
tự tử thất vọng chán nản v́ mất nước.
Nhiều người tự sát ngoài mặt trận như
Trung tá Nguyễn Hữu Thống Trung đoàn trưởng
Trung đoàn 42 (Sư đoàn 22) khi tầu Hải quân vào
Qui Nhơn cứu đám tàn quân của Sư đoàn
cuối tháng 3-75 , Trung tá Thống từ chối di
tản ở lại tự sát. Tháng
4 năm 2006 một cựu sĩ quan tham mưu của Quân
đoàn IV (VNCH) tiết lộ ngày 30/4/1975 họ đă
dự định hành quân qua Miên sang Thái Lan hoặc ra
Phú Quốc lập pḥng tuyến chống lại CS, cũng
có người cho rằng Quân khu IV chờ chính phủ
Sài G̣n dời xuống để tiếp tục
chiến đấu nhưng TT Dương Văn Minh
lại đầu hàng địch. Theo lời kể
của Trung uư Danh, tuỳ viên của Tướng Nam th́
ông là người nhân ái, sùng đạo Phật không
muốn đổ máu. “Là
một tư lệnh Quân đoàn, đă nắm trong tay
nhiều đơn vị trung thành, tướng
Nguyễn Khoa Nam có thể ra lệnh tiếp tục
chiến đấu, nhưng là vị tướng có ḷng
nhân ái, không muốn binh sĩ và đồng bào đổ
máu vô ích, ông không cho phá cầu, ông không muốn có người
chết thêm”(9) Nhận
xét về Tướng Dương Văn Minh nhiều người
hồi đó cũng như bây giờ chỉ trích chê
bai ông là kẻ đầu hàng địch, dâng nước
cho CSBV, nhưng cũng có nhiều người tán đồng
quyết định của Tướng Minh cho rằng
tiếp tục chiến đấu sẽ chỉ gây thêm
tang tóc đổ máu vô ích không hy vọng ǵ cứu văn
t́nh thế. Sau khi ra định cư tại Hải
ngoại, Tướng Dương Văn Minh đă
trả lời phỏng vấn: “Tôi
không cứu được nước nhưng tôi
phải cứu dân”. Theo
Tướng Vanuxem, sáng 30-4-1975 Trung Tướng Vĩnh
Lộc báo cáo với ông Dương Văn Minh t́nh h́nh
mặt trận, ông xoè bàn tay cho biết đă hỏng
hết rồi, Sư đoàn 25 tại Củ Chi và Sư
đoàn 18 tại Thủ Đức bị tan ră hoặc
rút lui, các lữ đoàn Dù và TQLC tại Vũng
Tầu mất liên lạc, Sư đoàn 5 tại Lai Khê
đang bị bao vây… Cộng quân đă vào tới Ngă
Tư Bảy Hiền đang giao tranh với Biệt Cách
Dù. Sau
30/4/1975, Thủ trưởng trường học tập
cải tạo Long Thành cho biết Dương Văn
Minh đầu hàng v́ ông đă thua hết cả,
nếu lực lượng c̣n mạnh chưa chắc ông
ta đă chịu cho buông súng. BV
bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài
G̣n từ 26-4- 1975, bốn ngày sau pḥng tuyến của
VNCH sụp đổ. Trước khi Dương Văn
Minh lên làm Tổng Thống người ta đă đoán
biết công việc của ông chỉ là để
đầu hàng. Một viên chức hành chánh thân
cận của ông Trần Văn Hương sau này
tiết lộ hồi đó ông Hương cho biết
người ta đă sắp đặt sẵn để
ông Thiệu bàn giao cho ông Hương rồi ông Hương
bàn giao cho ông Minh, ngay cả việc Dương Văn
Minh yêu cầu cơ quan Tuỳ viên quân sự DAO Mỹ
rút lui cũng là do người ta sắp đặt
cả. Khi
Dương Văn Minh đang làm lễ bàn giao ngày 28/4
th́ đài BBC đă nói. “Hôm
nay tại Sài G̣n ông Dương Văn Minh được
cử giữ chức vụ Quyền Tổng thống do
ông Trần Văn Hương trao lại để
chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng” Trong
phim VietNam a Television History (Việt Nam Thiên Sử
Truyền H́nh) do các kư giả, sử gia Mỹ, Anh, Pháp
thực hiện đă được chiếu ở VN
giữa thập niên 80, Chuẩn Tướng không
quân Phan Phu Tiên trả lời phỏng vấn và kết
luận. “Chúng
tôi là cấp lớn mà bỏ chạy đi như
thế này th́ cũng nhục nhă lắm nhưng mọi
việc người ta đă sắp đặt sẵn
cả rồi, dẫu muốn ǵ cũng đành bó tay không
thể làm hơn được” Khi
hai ông Thiệu và Khiêm ra đi hôm 21/4/1975, quân dân hoàn
toàn thất vọng , họ thừa hiểu số
phận của miền Nam như thế nào, lại
nữa hai hôm sau, Tổng Thống Trần Văn Hương
hiệu triệu đồng bào về t́nh h́nh vô cùng
bi đát của đất nước, ông đă khóc lóc
trên làn sóng điện về viễn ảnh “núi xương
sông máu của thành phố Sài G̣n” khiến cho người
dân ai nấy hồn lạc phách siêu, chuyện bí
mật Quốc gia đă được công khai tuyên
bố trên đài phát thanh. Quân
đội VNCH không đủ lực lượng để
chống lại gần 20 Sư đoàn Cộng quân và v́
bị Quốc Hội Dân Chủ Mỹ cắt hết
viện trợ: tiếp liệu kiệt quệ, máy bay
hết săng, pháo binh hết đạn. .. Đài BBC
Luân Đôn cũng tuyên truyền phá hoại khiến
binh sĩ thất vọng. Lực lượng pḥng
thủ dần dần ră ngũ, một số đơn
vị cảm tử chiến đấu tới cùng nhưng
cũng không cứu văn được t́nh thế. Trận
đánh cuối cùng đă kết thúc cuộc chiến
Đông Dương chỉ kéo dài có mấy ngày từ
26/4 cho tới 30/4/1975, cũng vào ngày này 30 năm trước
đó, năm 1945 tại Bá Linh quân Đức đầu
hàng Nga. Sài G̣n tái diễn lịch sử nước
Đức Đệ Nhị Thế Chiến, có khác chăng
tại Bá Linh giới lănh đạo không bỏ
trốn và ép buộc quân đội của họ
chiến đấu tới người lính cuối cùng. Kể
từ ngày Cộng quân đánh chiếm quận Đức
Lập ngày 9/3/1975 và Ban Mê Thuột ngày 10/3 để
mở đầu cuộc Tổng tấn công cho
tới ngày 30/4/1975, ngày kết thúc chỉ vỏn
vẹn có năm mươi mấy ngày. Vơ
Nguyên Giáp ra lệnh tấn công quân Pháp tại Hà
Nội nửa đêm 19/12/1946 là ngày khởi đầu
cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ mà
một kư giả Pháp năm 1966 đă gọi là La guerre
la plus longue du siecle, đến trưa ngày 30/4/1975 là ngày
kết thúc tính ra đă được ba mươi năm
và Việt Nam đă trở thành băi chiến trường
tan nát v́ bom đạn. Những
kẻ đă gây lên cuộc chiến tranh cốt
nhục tương tàn, núi xương sống máu
sẽ phải đời đời đắc tội
với Non sông và Lịch Sử. Trọng
Đạt ——————————- (1) Vơ
Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn kư giả Ư
Fallaci năm 1968 (2) Henry
Kissinger, Years of Renewal trang 471 (3) Cao
Văn Viên, Những Ngày Cuối Của VNCH trang
86, 87 (4)
Years of Renewal trang 481 (5)
Theo Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh
Việt Nam Toàn Tập trang 798-811 (6)
Những Ngày Cuối VNCH trang 92 (7)
Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề
Nhắc Tới Texas 1990 (8)
Vương Hồng Anh, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH
Những Ngày Cuối Cùng. (9)
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Bút kư của Trung
úy Lê Ngọc Danh.. |