|
‘…Đối
với Hoa Kỳ, bỏ rơi miền Nam Việt Nam
trong trận đồ quốc tế để thắng
Liên Xô và làm tan ră khối Cộng Sản là một
vấn đề chiến lược. Tiến hành
chiến dịch giải thoát tù “cải tạo”
Việt Nam để họ được sang sinh
sống và đoàn tụ tại Hoa Kỳ là một
vấn đề của lương tâm…’
Sau
ngày 30 Tháng Tư, 1975, chỉ trong ṿng hai tháng, hàng trăm
ngàn quân cán chính Việt
Nam Cộng Ḥa bị đưa vào các trại tập
trung “cải tạo.” (H́nh: rfa.org) LTS:
Ông Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức
cao cấp trong chính quyền VNCH. Tốt nghiệp khóa 1
Trừ Bị Nam Định và khóa 51-53 trường
Saint Cyr (Pháp), đỗ cử nhân luật và cao học
tiến sĩ kinh tế Đại Học Luật Khoa Sài
G̣n (1963), thẩm phán Ṭa Án Quân Sự, đại tá chánh
thẩm Ṭa Án Đặc Biệt (1966-1968), cố
vấn ngoại giao tại Paris (1968-1974), Nha Thông Tin Báo
Chí Bộ Ngoại Giao (1974-1975). Sau năm 1975, ông bị
đưa đi tù “cải tạo” (1975-1985), rồi
sau đó sang định cư tại Maryland, Hoa Kỳ,
từ năm 1990. Ông từng là chủ tịch Khu
Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị vùng Hoa Thịnh Đốn,
cựu phó chủ tịch ngoại vụ Tổng
Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, cựu chủ
tịch Cộng Đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh
Đốn (1996-1998). Ông c̣n viết nhiều bài khảo
luận về kinh tế, chính trị được
phổ biến rộng răi. Những
đoạn viết sau đây sẽ tŕnh bày một
số sự kiện chính trị đưa dẫn đến
việc những quân nhân VNCH bị Hà Nội tập
trung “cải tạo,” mô tả chính sách cải
tạo của CSVN sau năm 1975 và sau cùng đề
cập đến thiện chí của Hoa Kỳ trong
việc giải thoát tù “cải tạo” và cho họ
cùng gia đ́nh sang sinh sống tại Hoa Kỳ và
tại những nước dân chủ trên thế
giới. I-Giai
đoạn lịch sử chung của Hoa Kỳ và
Việt Nam Hoa Kỳ
can thiệp vào Việt Nam kể từ thập niên 1940
nhưng sự can thiệp này chỉ trở thành tích
cực bắt đầu từ thập nhiên 1950. Sau khi
Thế Chiến 2 chấm dứt và cục diện chính
trị thế giới đă h́nh thành rơ rệt với
hai khối Tự Do và Cộng Sản ḱnh chống nhau
trong một mô thức được gọi là
Chiến Tranh Lạnh th́ tại Hoa Kỳ, Tổng
Thống D. Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh
Đông Dương không c̣n là chiến tranh thuộc
địa mà là cuộc chiến giữa Cộng
Sản và Thế Giới Tự Do. Từ đó Hoa
Kỳ viện trơ cho Đông Dương càng ngày càng
nhiều để đánh trả lại Việt Minh
hầu ngăn chặn sự bành trướng của
phe Cộng Sản do Liên Xô và Trung Cộng lănh đạo. Sau Hiệp
Định Genève 1954 (chia cắt Việt Nam thành hai
miền Nam, Bắc), Hoa Kỳ biến miền Nam thành
tiền đồn chống Cộng. T́nh nghĩa đồng
minh mặc dù thắm thiết nhưng tới lúc
cần tự ḿnh đảm nhiệm cuộc chiến,
Hoa Kỳ đă không do dự loại bỏ Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm để được
rảnh tay mang quân vào Việt Nam và Mỹ hóa chiến
tranh. Ngày 8 Tháng Ba, 1965, Thủy Quân Lục Chiến Hoa
Kỳ đổ bộ lên Đà Nẵng mà không hề
thỏa hiệp trước với chính phủ Sài G̣n.
Số quân Mỹ tham chiến ở Việt Nam lớn
dần theo thời gian và có lúc đă lên tới
nửa triệu người. Đến
khi Hoa Kỳ cần oanh tạc Bắc Việt th́ họ
lại tạo ra sự kiện tàu Maddox. Tuy nhiên với
những trận mưa bom trên đất Bắc và
những chiến dịch lùng diệt rất quy mô
tại miền Nam, Hoa Kỳ vẫn không đạt
được mục tiêu và bị sa lầy. Số
binh sĩ Mỹ tử trận tại miền Nam càng ngày
càng gia tăng và số phi cơ bị bắn hạ
tại miền Bắc cũng lên cao (1,621 chiếc
từ năm 1961 đến 1966). Cuối năm
1967 nước Mỹ ch́m trong xáo trộn và phân hóa v́
chiến tranh Việt Nam. Tổng Thống Johnson quyết
định “Việt Nam Hóa” cuộc chiến.
Được tăng cường, quân lực Việt
Nam Cộng Ḥa (VNCH) lần lượt thay thế quân
lực Hoa Kỳ trong những trách vụ hành quân quan
trọng. Chiến tích
lẫy lừng nhất của quân lực anh hùng này là
chiến thắng Tết Mậu Thân (1968). Chiến
thắng này bẻ găy kế hoạch tổng tấn công/tổng
nổi dậy của Tướng Cộng Sản Vơ Nguyên
Giáp và phá tan huyền thoại “bách chiến bách
thắng” của quân đội Cộng Sản Bắc
Việt. Gần 60,000 quân Cộng Sản tung vào trận
địa đă bị tiêu diệt hết phần
nửa chỉ trong một tháng giao tranh. Phần c̣n
lại bị thanh toán gần hết khi cuộc
chiến chấm dứt. Trong cuộc chiến khốc
liệt ấy, người ta ghi nhận bên phía VNCH
chỉ có 4,954 chiến sĩ hy sinh. Sau
chiến thắng Tết Mậu Thân, Quân Lực VNCH
tự đảm nhiệm trọng trách tác chiến
để quân Mỹ có thể rút về nước.
Cuộc hành quân thần tốc vào Cambodia để truy
lùng Việt Cộng và tiếp cứu Lon Nol, chiến
dịch Lam Sơn 719 cắt đứt đường
tiếp liệu của Cộng Sản, cuộc tử
thủ An Lộc được ví như trận Verdun
của Pháp, cuộc tái chiếm cổ thành Quảng
Trị tranh nhau với binh sĩ Cộng Sản từng
thước đất, đă chúng minh một cách hùng
hồn khả năng tác chiến và tinh thần dũng
cảm của quân lực anh hùng ấy. Song song
với những chiến tích lẫy lừng của quân
đội, công cuộc “B́nh Định và Phát
Triển Nông Thôn” cũng ở trên đà thành công
tốt đẹp. Vào những năm đầu của
thập kỷ 1970, theo cuộc thăm ḍ của Hamlet
Evaluation Survey (HES) do các cố vấn Hoa Kỳ thực
hiện khắp miền Nam Việt Nam th́ trong 1,333 xă
ấp cuối cùng do chiến dịch Accelerated Pacification
Campaign (APC) đảm trách, 1,035 xă ấp đă có an
ninh và 80% dân số miền Nam đă được
sống trong vùng chính phủ kiểm soát. Chương
tŕnh Việt Nam Hóa Chiến Tranh đang đi vào giai
đoạn thành công th́ trên thế giới xảy ra
một biến cố làm cho chương tŕnh này đứt
đoạn và cuộc chiến thắng của VNCH
bị bỏ lỡ. Năm 1969, trên sông USSURI, dọc
theo biên giới Đông Bắc Trung Hoa, Liên Xô và Trung
Cộng đă động binh giáp chiến. Sự
kiện này chứng minh cho Hoa Kỳ thấy rằng
sự nứt rạn, từ năm 1953, giữa hai đảng
Cộng Sản anh em là có thật và Hoa Kỳ đă không
bỏ lỡ cơ hội t́m cách ly gián để làm
suy nhược hàng ngũ đối phương. Chiến lược
toàn cầu của Mỹ thay đổi từ giờ phút
đó. Những cuộc vận động ngoại giao
và chính trị dồn dập xảy ra nhằm hỗ
trợ mục tiêu chiến lược vừa nói: -Ngày 9 Tháng
Bảy, 1971, Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và
được Chu Ân Lai tiếp kiến. -Ngày 25 Tháng
Mười, 1971, tại Đại Hội Đồng
thứ 26 của Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ bỏ rơi
Đài Loan để bắt tay với Trung Cộng. -Ngày 21 Tháng
Hai, 1972, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon thăm
viếng Trung Quốc trong bảy ngày. -Ngày 28 Tháng
Hai, 1972, Thông Cáo Chung Thượng Hải ra đời.
Tổng Thống Nixon tuyên bố đây là “một
tuần lễ” sẽ làm thay đổi thế
giới. Sự thay
đổi thế giới khởi sự bằng
tiến tŕnh rút quân Hoa Kỳ khỏi Việt Nam. Bill
Sullivan, phụ tá của Henri Kissinger tại ḥa đàm
Paris tuyên bố rằng: “…người Trung Hoa đă
khai thông với chúng ta. Làm cho người Trung Hoa tách
rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta quan
trong hơn nhiều việc chiến thắng ở
Việt Nam.” Điều
không may cho miền Nam Việt Nam là đúng vào lúc chương
tŕnh Việt Nam Hóa Chiến Tranh đang thành công
tốt đẹp th́, trên bàn cờ chính trị
thế giới, Hoa Kỳ thay đổi chiến lược
toàn cầu, c̣n trong nước th́ làn sóng chống
chiến tranh dâng lên như nuớc thủy triều.
Cả một thế hệ xuống đường vào
năm 1968, gồm toàn những thành phần trẻ
mới vào đời, chịu ảnh hưởng
tiểu thuyết hiện sinh của Hemingway và Fitzerald.
Họ sợ hăi. Một loại sợ hăi đặc
biệt chỉ t́m thấy trong các xă hội giàu có.
Đó là thứ sợ hăi trách nhiệm v́ ham hưởng
thụ và không chịu ràng buộc vào bất cứ
vấn đề ǵ. Hoa Kỳ thay đổi chiến lược
toàn cầu một phần v́ muốn lợi dụng
sự phân hóa trong khối Cộng Sản quốc
tế nhưng phần khác cũng tại áp lực
của phong trào phản chiến trong nội địa. Về phía
miền Nam Việt Nam th́ mặc dầu chiến đấu
oanh liệt và thắng lợi như vậy, rốt
cuộc quân lực VNCH đă phải tủi hờn ră
ngũ để nh́n Việt Cộng chiếm trọn quê
hương. Họ đă là thành phần phải
trả giá đắt nhất cho một sự phản
bội. Họ không thua v́ hèn kém mà thua v́ lộ đồ
bại trận đă được đồng minh Hoa
Kỳ vạch sẵn từ lâu. Vào giờ
phút hấp hối của VNCH, khi nghe Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, năm
vị tướng tài ba và đảm lược
nhất của quân đội đă tuẫn tiết
theo truyền thống hào hùng của ông cha. Đó là các
tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn
4; Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn 4; Lê
Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5; Trần Văn
Hai, tư lệnh Sư Đoàn 7; và Phạm Văn Phú,
tư lệnh Quân Đoàn 2. Trong hàng sĩ binh sĩ
cấp dưới cũng không ít những tấm gương
hiên ngang và khí phách tương tự. Điểm son này
cần ghi lại cho các thế hệ mai sau v́ là
một trong những nét kiêu hùng của ṇi giống. II-Tiến
tŕnh “cải tạo”
1-Thủ
đoạn lừa dối tham độc của CSVN Khi đồng
minh Hoa Kỳ tháo chạy trước đà tiến quân
của Cộng Sản Bắc Việt, họ đă
để lại đằng sau 980,000 người lính
của Quân Lực VNCH, những quân nhân đă từng
sát cánh với binh sĩ Hoa Kỳ bảo vệ biên cương
của thế giới tự do. Vào giờ
VNCH hấp hối thảm cảnh “sống chết
mặc bay”diễn ra vô cùng chua sót. Người ta
dẫm lên nhau chạy trốn Cộng Sản không
kể ǵ đến sinh mạng và tài sản v́ Hoa
Kỳ không có một chương tŕnh di tản nào tương
xứng với t́nh nghĩa đồng minh. Khởi
thủy Mỹ chỉ muốn di tản 50,000 người.
Vào phút chót số nhân mạng được may
mắn cứu vớt mới nhích lên được con
số 130,000. Họ muốn mọi chuyện diễn ra
nhanh chóng cho xong việc. Người ta đoán
được tâm trạng này qua lời nguyền
rủa rất tàn nhẫn của Henri Kissinger: “Sao chúng
không chết phứt cho rồi” (Why don’t these people die
fast?). Như vậy, chỉ cần làm một con tính
nhỏ người ta có thể thấy ngay là hơn
800,000 binh sĩ của Quân Lực VNCH đă là nạn
nhân của chế độ cải tạo của
Cộng Sản Việt Nam.
Những
người lính VNCH pḥng vệ Dinh Độc Lập
bị bắt sáng 30 Tháng Tư, 1975. Chỉ vài
ngày sau khi chiếm trọn miền Nam, những người
Cộng Sản đă lùa quân nhân, công chức và thành
viên đảng phái quốc gia vào tù bằng một
thủ đoạn vô cùng hèn hạ. Trong một
buổi ra mắt mừng chiến thắng, Tướng
Cộng Sản Trần Văn Trà, chủ tịch Ủy
Ban Quân Quản thành phố Hồ Chí Minh (Sài G̣n)
với dụng ư hiểm độc đă tuyên bố
trước báo chí một câu mà những người
bị “cải tạo” không thể nào quên “Đối
với người Việt Nam không có ai là kẻ
chiến thắng hay chiến bại. Chỉ có đế
quốc Mỹ là bị đánh bại mà thôi.” V́
lời tuyên bố đường mật này mà các quân
nhân, công chức và thành viên đảng phái quốc
gia đă tự nguyện đi học tập “cải
tạo” với số lương thực tự túc là
10 ngày hay một tháng tùy theo cấp bậc, chức
vụ. Thế
rồi một tháng trôi qua, không ai được tha.
Khi giải thích sự việc này, bọn cai tù Cộng
Sản, dương dương tự đắc nói
rằng: “Đó là nghệ thuật của cách
mạng bắt các anh vào tù chứ làm ǵ có chuyện
trả tự do, sau một tháng giam giữ, cho các con người
có nợ máu với nhân dân như các anh. Các anh c̣n
phải cải tạo dài dài.” Biết ḿnh bị
lừa nhiều người đă tự tử. Một
số người khác t́m cách trốn trại để
rồi cũng bị bắt lại và đánh chết
thảm thương như những con vật. Sau một
năm áp dụng lao động khổ sai cho chế
độ “cải tạo,” Chính Phủ Cách Mạng Lâm
Thời Cộng Ḥa Miền Nam, trước khi bị Hà
Nội giải tán, công bố chính sách 12 điểm
quy định thời gian “cải tạo” là ba năm.
Sự công bố này lại mang hy vọng cho những người
đă mất hết tin tưởng vào viễn ảnh
của một ngày về đoàn tụ với gia đ́nh. Đến
cuối năm 1978 th́ cái hy vọng mong manh nói trên
lại tan tành ra mây khói. Thời gian “cải tạo”
ba năm như lời Cộng Sản hứa đă
chấm dứt, song chẳng thấy ai được
tha về. Trái lại, trong thời gian này, đa số
đă bị lưu đày lên những vùng rừng núi
Bắc Việt ma thiêng nước độc với thân
tàn ma dại và tinh thần sa sút đến cùng
cực. Một làn sóng tự tử thứ hai lại
xảy ra, nhưng lần này bên cạnh những xác
chết v́ thất vọng c̣n có thêm nhiều xác
chết khác v́ đói khát và bệnh tật. Vợ con
của những người bị bắt đi
“cải tạo” cũng trở thành nạn nhân
của các biện pháp kỳ thị và ngược
đăi. Họ bị đuổi khỏi nơi cư trú
và phải đi vùng kinh tế mới giữa những
rừng núi hoang vu không có một chút tiện nghi
tối thiểu cần thiết cho đời sống.
Con cái họ bị kỳ thị gắt gao khi thi cử
và không được phép vào đại học. Nhà
cửa của họ bị cán bộ Cộng Sản
chia nhau chiếm đoạt, tiền bạc của
họ ở ngân hàng cũng không được phép
lấy ra. Trong cơn
túng quẫn những phụ nữ trẻ đẹp
đă bị dồn vào thế làm lẻ mọn cho cán
bộ Cộng Sản để có phương tiện
nuôi thân và nuôi con c̣n nhỏ dại. Những người
khác, rủ nhau chạy ùa ra biển, đem sinh mạng
của chính ḿnh và của con cái ḿnh để đổi
lấy tự do. Phong trào “thuyền nhân tị nạn
Cộng Sản” đă đánh động lương
tâm nhân loại v́ trong số hàng triệu người
liều chết ra đi, gần một nửa đă
nằm trong bụng cá hoặc làm mồi cho hải
tặc. 2-Những
chặng đường “cải tạo” (kinh
nghiệm bản thân) -Những
ngày đầu giam lỏng: Sau khi tŕnh diện để
được “học tập cải tạo,” chúng tôi
được chở bằng xe buưt đến Long Thành.
Nằm trên đường Sài G̣n-Vũng Tàu, không cách
xa thị xă Biên Ḥa là bao nhiêu, trại giam Long Thành là
một cô nhi viện cũ bị Cộng Sản trưng
dụng làm nhà tù. Trong
những ngày đầu, chúng tôi tương đối
được tự do, ăn uống không thiếu
thốn v́ ngoài lương thực mang theo một tháng
chúng tôi c̣n có thể mua thực phẩm tại căng
tin của trại. Chúng tôi cũng chưa phải lao
động mà chỉ phải học tập 10 bài chính
trị và viết tự kiểm. Các bài học chính
trị là những tài liệu đơn giản
“kể tội Mỹ-Ngụy,” tuyên truyền lư
thuyết Cộng Sản và phổ biến chính sách
khoan hồng nhân đạo của chính phủ cách
mạng. Những buổi học tập này nhằm gieo
vào đầu óc chung tôi mặc cảm tội lỗi
để chúng tôi nhận tội và an tâm cải
tạo lâu dài. Thỉnh thoảng cũng có cán bộ
cao cấp từ trung ương về thuyết tŕnh
những đề tài chính trị và quân sự có tính
cách vừa khoe khoang vừa đe dọa. Cái mà
những người Cộng Sản muốn đạt
được không phải là vấn đề
“cải tạo” chúng tôi thành những người
ủng hộ chế độ mà chủ yếu là khai
thác chúng tôi qua những bản tự kiểm để
biết thêm tin tức về các mặt t́nh báo và tài
nguyên của miền Nam. Trong thời gian làm tự
kiểm cán bộ Cộng Sản đối xử
với chúng tôi rất ḥa nhă và tử tế. Họ
khuyến khích khai thành thật với bằng chứng
cụ thể và tố cáo thật nhiều để
đái công chuộc tội với cách mạng. Phải
nh́n nhận rằng về mặt khai thác này những
người công an Cộng Sản rất lành nghề và
làm việc có hiệu quả cao. Sau một
tháng “cải tạo” không ai được tha. Đợt
tha đầu tiên, gồm một số ít người
có gia đ́nh biết chạy chọt tiền bạc,
chỉ xảy ra vào đầu năm 1976 trước
khi chúng tôi bị lưu đày ra Bắc. Chiến
dịch lưu đày này được Cộng Sản
chuẩn bị chu đáo v́ họ có thời gian
một năm để sắp xếp và thực
hiện. Các trại tù miền Bắc được xây
cất thêm hoặc dồn lại để có chỗ
tiếp nhận chúng tôi. Phương tiện chuyên
chở th́ gồm vừa hàng không vừa hàng hải.
Chuyến máy bay duy nhất chở tù chính trị ra
Bắc nhằm mục đích quảng cáo cho chế
độ và đánh lừa dư luận để người
ta không để ư tới những chuyến hải hành
khủng khiếp tiếp theo. Sau khi
những quân nhân và công chức cao cấp của VNCH
được chở bằng máy bay đi rồi chúng
tôi được di chuyển từ Long Thành lên
trại giam Thủ Đức. Cảnh tù đày đầu
tiên đến với chúng tôi tại trại giam này.
Chúng tôi bị lùa vào những pḥng giam chật chội
thiếu vệ sinh, có cửa sắt khóa chặt dưới
con mắt kiểm soát cú vọ của những người
công an Cộng Sản với nét mặt căm thù và
hống hách. Hai tháng không học tập, không lao động,
chỉ ngồi ăn, làm cho số lương thực
dự trữ của chúng tôi dần dần khô cạn.
Viễn tượng đói khát bắt đầu xâm
chiếm tâm hồn nhưng mỗi người trong chúng
tôi cứ phải thúc thủ với ư nghĩ riêng
của ḿnh mà không dám chia sẻ với ai v́ sợ
bị gán cho tội nói xấu chế độ. Chúng tôi
ư thức rằng cuộc đời phiêu lưu gian
khổ sẽ bắt đầu từ đây. -Chuyến
hải hành khủng khiếp: Thế rồi việc ǵ
phải đến đă đến. Tại trại giam
Thủ Đức, một đêm, chúng tôi bị đánh
thức dậy, nhận lệnh sắp xếp quần
áo để chuyển trại, bị c̣ng tay và chở
bằng xe hơi lên bến Tân Cảng Sài G̣n. Tại
đây một chiếc tàu thủy to lớn đă
chờ sẵn. Chúng tôi bị lùa vào những hầm tâu
dành cho súc vật, nằm chờ tàu nhổ neo để
bắt đầu chuyến hành tŕnh ra Bắc. Bóng
tối của hầm tàu che dấu những giọt nước
mắt tuôn ra v́ lo sợ, đau buồn và tủi
nhục. Trong
suốt ba bốn ngày đêm lênh đênh trên mặt
biển chúng tôi phải thu hết can đảm và
nghị lực để chịu đựng sự tanh
tưởi và hôi hám của hầm tàu. Ban đêm
hầm tối đen như mực. Ánh sáng chỉ
lọt qua những kẽ hở khi mặt trời ló
rạng. Khi tàu chuyển máy ra khơi, phần đông
anh em tù nhân bị say sóng và nằm mê man bất
tỉnh. Cao điểm của cảnh khổ cực này
xảy ra chỉ một ngày sau khi chuyến hải hành
khởi sự. V́ say sóng, nôn mửa và bài tiết
nhiều nên lượng bài tiết lớn hơn
những thùng chứa đựng khiến phân và nước
tiểu cứ tự do đào thoát ra ngoài và len lỏi
vào chỗ nằm của các tù nhân mỗi khi tàu chao
đảo. Khi tàu
cập bến Hải Pḥng, mở nắp hầm ra,
những người cai tù xa xẩm mặt mày v́ mùi hôi
thối xông lên nồng nặc. Họ tức tốc
đóng cửa hầm lại, đi lấy khẩu trang
đeo vào mũi miệng rồi mới tiếp tục
công việc chuyển tù lên đất. Riêng đối
với tù nhân th́ khi bước ra khỏi hầm
tầu ai cũng có cảm giác như vừa từ
địa ngục được bước lên thiên
đàng, một cảm giác chết đi sống
lại. Thoát
được cảnh hầm tàu hôi hám chúng tôi
liền bị c̣ng tay và nhồi nhét vào những
chiếc xe hơi bịt bùng không cho nh́n thấy
cảnh vật bên ngoài. Xe chạy rất lâu trong đêm
tối. Măi gần sáng chúng tôi mới được
lệnh ra khỏi xe và nhập trại. Những người
công an canh gác cho chúng tôi tắm rửa ngay ở
miệng một giếng nước, giặt giũ qua
loa rồi hối thúc chúng tôi vào những pḥng giam kiên
cố của nhà tù. Sau khi cửa sắt đóng
lại và khóa chặt, họ nói vọng vào từ bên
ngoài: “Các anh đến đây an toàn rồi, bây
giờ chỉ c̣n việc an tâm cải tạo để
chờ ngày được chính phủ khoan hồng.” Nói
xong họ bỏ đi chỉ c̣n lại hai người
công an trẻ cầm súng gác. Hỏi thăm
hai người công an trẻ chúng tôi được
biết trai này là trại Quảng Ninh, nằm trên
rừng núi cao và nh́n ra vịnh Bắc Việt. Trại
này hoàn toàn cách ly khỏi xă hội bên ngoài v́
đường giao thông rất khó khăn. Xă hội
thu hẹp của chúng tôi bây giờ chỉ gồm có
ba thành phần: nhóm tù “cải tạo” chúng tôi
mới đến, những người tù h́nh sự
bị giam giữ từ lâu và những người cai tù
có nhiệm vụ canh giữ. Ngày đầu
tiên đến trại Quảng Ninh, chúng tôi có cảm
tưởng h́nh như thời gian trôi nhanh hơn thường
lệ. Mới sáng đấy mà đă tối ngay. Khí
lạnh của độ cao rừng núi thấm vào pḥng
giam và vào cơ thể con người. Khi màn đêm
đổ xuống, trong pḥng ch́ c̣n lại một
ngọn đèn dầu leo lắt và những tiếng
thở dài năo nuột trong im lặng buồn tanh và ghê
rợn. -Tiến tŕnh
diệt chủng bắt đầu: Sáng hôm sau chúng tôi
bị phân chia thành đội để bắt đầu
làm quen với lao động. Mỗi đội, 30 người,
do một đội trưởng là tù nhân và một
quản giáo là cán bộ công an phụ trách. Khi đội
đi lao động, công an vác súng đi kèm. Trong
những ngày đầu chúng tôi chỉ phải lao động
nhẹ chẳng hạn như trồng rau hoặc
cuốc sắn gần khu trại giam. Dần dần chúng
tôi phải đi xa và phải lao động nặng
nhọc hơn, chẳng hạn như vào rừng
lấy gỗ làm nhà. Sau nhiều ngày làm quen với
khung cảnh sinh hoạt trong trại chúng tôi thấy
rằng mỗi trại tù Cộng Sản là một
đơn vị kinh tế độc lập. Tù nhân
phải lao động để nuôi cán bộ canh
giữ ḿnh, để xây trại giam hăm ḿnh và để
cung cấp tiện nghi cho khu gia đ́nh là khu vợ con cán
bộ ở. Nhà nước không cần chi phí ǵ
nhiều cho trại tù nên nếu nói rằng dưới
các chế độ Cộng Sản nhà tù nhiều hơn
trường học th́ cũng không có ǵ đáng
ngạc nhiên. Bị lưu
đày ra Bắc chúng tôi mất hết liên lạc
với gia đ́nh, cho nên mọi nguồn tiếp tế
lương thực đều bị cắt đứt.
Lao động cả ngày mệt nhọc, chúng tôi
chỉ được trại cho ăn hai bữa,
với mỗi bữa hai chén cơm đầy sạn thóc
và một ít rau muống luộc. Ngoài hai bữa cơm
ra chúng tôi không có thứ ǵ khác để nuôi sống
cơ thể. Mỗi ngày anh em tù nhân nh́n nhau chỉ c̣n
biết thở dài. Ai cũng gầy ốm đi trông
thấy. Ở
trại Quảng Ninh chừng hơn một tháng, tôi và
một số tù nhân khác bị chuyển đi trại
Thanh Cẩm. Trại này nằm trong vùng Bái Thượng,
trên thượng nguồn sông Mă, sau những dăy núi Lam
xanh biếc. Từ trại sang biên giới Lào ước
lượng chỉ vài cây số. Đến đây chúng
tôi bị giam chung với khoảng 700 anh em tù chính
trị khác và trong trại cũng có cả một
số tù h́nh sự. Tôi bị giam ở trại này liên
tục cho đến ngày được tha về. Tại
trại Thanh Cẩm, chế độ lao động c̣n
khắt khe và nặng nhọc hơn ở trại
Quảng Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công
an gốc dân tộc Mường, chúng tôi phải đi
rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến
vừa đi vừa về vào khoảng 3 cây số.
Mỗi ngày phải đi ba chuyến mà chỉ
được ăn có bốn chén cơm với vài
cọng rau muống luộc th́ sức nào chiụ
nổi. Nếu đội nào không đi xe cát th́
phải xe đá hoặc vào rừng đẵn luồng
vác về cho cán bộ làm nhà. Những người lao
động ở trại cưa, trại mộc cũng
không sung sướng ǵ hơn. Cả ngày quần nhau
với những cây gỗ lớn, cưa xẻ liên
hồi hoặc đục đẽo luôn tay thi lấy năng
lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất
trồng khoai ngô mới là mệt v́ đất núi
bạt ngàn mà nhân công th́ thưa thớt. Ấy là chưa
kể những vụ gánh phân đi bón nặng găy xương
sườn và chốc lở xương vai. Sức người
có hạn c̣n nhu cầu của trại th́ mỗi ngày
một tăng thêm. Bên cạnh những cái chết v́
tại nạn lao động như bị đá núi
đè, lợp nhà té xuống đất hay bị cây
luồng đâm thủng bụng, dần dần người
ta thấy xuất hiện những cái chết v́ đói,
v́ thiểu lực. Sau hơn ba năm bị lưu đày
ra Bắc anh em tù nhân chôn nhau, v́ chết đói, đă
chật cả một phần đồi sắn. Có
một thời gian, trong tâm tư và trước mắt
mọi người cái chết đă trở thành quen
thuộc, không gây sợ hăi và cũng không gây xúc động.
Tù nhân chờ đợi Thần Chết đến thăm
như chờ đợi một sự giải thoát. Chính sách
bắt lao động khổ sai kết hợp với
bỏ đói là phương cách giết người
tinh vi và thâm độc của những người
Cộng Sản. Đó là sự nhẫn tâm và tàn ác
nhất mà con người có thể đối xử
với con người. -Một vài
cảnh đói ngoài tưởng tương: Xin kể
ra đây vài cảnh đói mà người b́nh thường
sống ngoài xă hội, cho dù óc tưởng tượng
có súc tích đến đâu, cũng không thể nào nghĩ
tới. Một hôm
nhân lúc đội tù đang lợp nhà, th́nh ĺnh anh em
tù nhân phát giác một ổ rắn dưới tấm
lá tranh. Tức th́ một anh hô to “Rắn, Rắn.”
Tiếng hô vừa rứt, đám tù nhân nhanh như
cắt đă vây quanh ổ rắn và chỉ trong nháy
mắt, bằng tay không, các anh đă bắt hết
những con rắn độc, bẻ cổ vứt đi
và nhét phần c̣n lại vào túi áo. Trong giờ
giải lao, được phép của cán bộ canh
giữ, các anh đă nổi lửa rồi đem
rắn ra nướng và ăn ngon như chưa bao
giờ ngon thế. Không phải chỉ có rắn mà
cả rết, cả chuột, cả cóc nhái, sên
ốc… nghĩa là tất cả những con ǵ cử
động mà để cho các anh trông thấy th́ đều
chịu chung một số phận. Một hôm
khác, nhân ngày Chủ Nhật, không phải lao động,
các tù nhân ôm bụng đói đang thiu thiu ngủ th́
một anh nghe tiếng chuột con kêu trên mái nhà. Không
bỏ lỡ cơ hội, anh liền chồm dậy,
gọi thêm hai người khác rồi cả ba, khiêng bàn,
công kênh nhau lên bắt chuột. Họ bắt được
một ổ chuột con hăy c̣n đỏ hỏn, chia
nhau ăn sống như nhai những củ sâm. Mặc
cho máu mê trào ra ngoài miệng trông như ác quỷ, các
anh thản nhiên nhai ngấu nghiến như không màng ǵ
tới hoạt cảnh ghê rợn tạo nên. Một
buổi chiều sau khi đi lao động về, chúng
tôi thấy một anh bạn tù nhân sắp chết
đói đang ngồi bên một ḍng nước
tiểu chảy ta từ phía những thùng phân nổi
trong cầu tiêu. Nh́n kỹ thấy anh đang bắt
mấy con kiến, tha những mảnh ngô chưa tiêu
kịp, di chuyển từ cầu tiêu về tổ. Anh lượm
những mảnh ngô đó bỏ vào mồm rồi tha
cho những con kiến để chúng tiếp tục làm
công việc vận tải mà anh thèm muốn. Chương
tŕnh cướp ngô của kiến anh chỉ thực
hiện được có một ngày. Ngày hôm sau anh trút
hơi thở cuối cùng v́ quá đói. Bằng chính
sách bỏ đói kết hợp với lao động
khổ sai những người Cộng Sản đă
giết tù “cải tạo” mà không cần đem ra trường
bắn, không cần nhốt vào ḷ hỏa thiêu như người
Đức Quốc Xă đă làm. Họ cũng chẳng
cần tạo ra những cảnh “tắm máu” làm ǵ. -Một
chuyện tù vượt ngục: Trại “cải
tạo” Thanh Cẩm có một khu kiên giam dành cho
những thành phần được Cộng Sản coi
là đặc biệt nguy hiểm. Những người
bị giam trên khu này không phải lao động nhưng
bị cùm chân ban đêm khi đi ngủ. Có một
thời gian, tôi cũng là một tù nhân của khu
vực kiên giam này. Nhờ không phải lao động nên
tôi mới sống sót đến ngày nay. Tại đây
tôi c̣n giữ lại một kỷ niệm hăi hùng mà
suốt đời không bao giờ quên được,
kỷ niệm liên quan đến một chuyện tù vượt
ngục. Là
những tù nhân không có ngày về và bị bỏ đói
triền miên hết ngày này qua tháng khác, chúng tôi cam tâm
kéo dài cuộc sống bị đày ải và hoàn toàn
tuyệt vọng giữa rừng núi hoang vu của biên
giới Lào-Việt. Khi màn đêm đổ xuống,
khu kiên giam lạnh lẽo và tĩnh mịch, nặng
nề như một nhà quàn chất chứa những xác
người chưa chết. Ban ngày, chúng tôi đau
đớn nh́n nhau như nh́n những bộ xương
khô biết cử động.Viễn tượng
của ngày sum họp với gia đ́nh, từ lâu,
đă hoàn toàn tan biến. Tương lai duy nhất c̣n
lại là sự chờ đợi ngày về với
tổ tiên. Thế
rồi, một biến cố kinh hoàng đă xảy ra.
Đêm ấy là đêm 1 Tháng Năm, 1979, đêm liên
hoan của Cộng Sản nhân dịp Lễ Lao Động.
Bọn công an trẻ thường chểnh mảng trong
nhiệm vụ canh gác mỗi khi có liên hoan. Bỗng nhiên
trong bầu không khí tĩnh mịch của đêm khuya,
chúng tôi nghe phát ra từ pḥng giam bên cạnh, một âm
thanh đào tường đều đều như máy
chạy. Thỉnh thoảng lại có tiếng người
rầm ŕ động viên nhau như hối giục. Chúng tôi
hiểu ngay đó là một kế hoạch trốn
trại đang được tiến hành. Trong cơn
tuyệt vọng, các anh mới đến từ
trại Quyết Tiến, đang chọn đi vào
chỗ chết để t́m đường sống.
Mọi người trong pḥng giam bên này đều
nhắm mắt cầu nguyện cho các bạn đó thành
công. Đêm càng
khuya chúng tôi càng hồi hộp. Âm thanh đào tường
nghe mồi lúc một yếu dần. Gà bắt đầu
gáy sáng mà âm thanh vẫn c̣n tiếp tục. Khi âm thanh
chấm dứt th́ ánh nắng đă luồn qua khung
cửa sắt chật hẹp của pḥng giam. Đang lo
lắng cho số phận của mấy anh em trốn
trại, chúng tôi giật ḿnh v́ những tiếng súng báo
động nổ rến. Rồi tiếng chân người
xô chạy về thượng nguồn sông Mă xen
lẫn với những tiếng la hét vọng lại
từ xa. Trong pḥng lúc đó không biết ai đă
thở dài và thốt ra hai tiếng “thất bại.”
Chúng tôi đau đớn chia sẻ sự thất
bại đó và lo sợ đến tột cùng khi nghĩ
tới những biện pháp trả thù của bọn công
an Cộng Sản trong cơn tức giận. Khi trời
sáng hẳn, pḥng giam của những người
trốn trại bị công an lục soát rất kỹ.
Một tên công an thản nhiên nói với đồng
bọn: “Thằng Tiếp chết rồi.” Anh Đặng
Văn Tiếp là một cựu trung tá của Không
Lực VNCH và dân biểu quốc hội trước khi
miền Nam sụp đổ. Nghe hung tin đó chúng tôi
đau đớn lặng người. Những giọt
nước mắt từ từ lăn trên g̣ má như
một lời vĩnh biệt. Tất cả các anh khác
bị bắt lại hết và bị đánh đập
tàn nhẫn. Hai ngày sau, anh Lâm Thành Văn chết theo anh
Tiếp. Riêng Cha Nguyễn Hữu Lễ may mắn
sống sót dù bị đả thương rất
nặng. Sau 13 năm “cải tạo,” Linh Mục
Lễ hiện đang phụ trách một họ đạo
ở Tân Tây Lan. Bài học
của Bắc Kinh: Vào khoảng đầu năm 1979,
tại trại Thanh Cẩm, anh em tù “cải tạo”
chết đói khá nhiều. Trong khi ai cũng cam tâm
chờ chết th́ một đêm chúng tôi nghe thấy
những bài b́nh luận lạ tai phát ra từ những
loa tuyên truyền ngoài cổng trại. Sau nhiều ngày
theo dơi tin tức chúng tôi được biết
giữa Hà Nội và Bắc Kinh đang có sự xích mích
nặng nề. Bắc Kinh
đang chuẩn bị cho Việt Nam một bài học.
Một quân đoàn Trung Cộng, trải dài trên 600 cây
số tại biên giới phía Bắc sẽ xâm lăng
Việt Nam và sẽ tiến vào Hà Nội trong vài ngày.
Không khí chiến tranh bao trùm cả nước. Lệnh
tổng động viên được ban hành và bộ
đội đang di chuyển cấp tốc từ
Cambodia về biên giới Việt-Trung. Các trại
“cải tạo” nằm sát biên giới như
Quyết Tiến, Phong Quang… được di tản sâu
vào nội địa. Trại Thanh Cẩm phải
nhận thêm một số tù nhân đến từ
trại Quyết Tiến. Chiến
tranh đă thật sự xảy ra nhưng quân Trung
Cộng, sau khi làm cỏ, mấy tỉnh miền biên
giới, chỉ tiến đến Việt Tŕ rồi rút
về nước. Hà Nội không bị bao vây và công hăm. Bài học
của Bắc Kinh đă cứu sống rất nhiều
tù “cải tạo,” đó là điều mà ít người
biết tới. V́ có bài học này nên chính sách
“cải tạo” khắc nghiệt của Hà Nội có
đôi phần nới lỏng. Sau bốn năm bị
cắt đứt mọi liên lạc với gia đ́nh,
chúng tôi được viết thư và nhận đồ
tiếp tế trở lại. Không những thế, gia
đ́nh c̣n được phép đến trại thăm
gặp và trong vài trường hợp đặc
biệt tù nhân “cải tạo” c̣n được phép
ở lại suốt đêm ngoài nhà khách để sinh
hoạt với gia đ́nh. Một
chuyện khác mà không ai ngờ tới là những gói quà
tiếp tế không những đă cứu sống chúng
tôi khói chết đói mà c̣n cho chúng tôi cơ hội
“cải tạo” những bộ óc chậm tiến
của những người tự cho có nhiệm vụ
“cải tạo” chúng tôi.
Những
người lính VNCH bị bắt sáng 30 Tháng Tư,
1975. Mỗi
đợt khám quà của tù nhân là một dịp để
các cán bộ làm quen với thế giới bên ngoài qua
những đồ tiếp tế. Lần đầu tiên
khám quà một anh cán bộ trẻ thấy một gói
lạp xưởng đ̣i tịch thu. Chúng tôi hỏi
tại sao th́ được trả lời: “Tịch
thu, v́ các anh không được phép mang nến (đèn
cầy) vào trong trại.” Tội nghiệp, từ bé
tới lớn anh chưa được ăn lạp xưởng
bao giờ nên tưởng lạp xưởng là đền
cầy. Những
thứ lạ mắt như những cuốn giấy
vệ sinh trắng muốt, những chai xà bông nước,
những lon cà phê sữa bột, những viên thuốc
Tây xanh đỏ đựng trong những lọ có
nắp khó mở…. đều là những thứ mà
trại thấy cần phải giữ lại để
nghiên cứu. Sau này khi biết những thứ đó không
có ǵ nguy hiểm và thỉnh thoảng lại được
chúng tôi “kỷ niệm” (nghĩa là cho theo ngôn
từ Cộng Sản) các công an trẻ dần dần làm
thân và thường muốn nghe chúng tôi kể những
chuyện của thế giới bên ngoài, trong giờ lao
động. Kỷ luật trại giữa cán bộ và
tù nhân cũng không c̣n gay gắt như trước
nữa. Ngày
một số anh em chúng tôi được trả
lại tự do (1985) những người công an trẻ
đến chia tay bằng một câu nói cảm động:
“Thôi các anh về mạnh khỏe rồi đi
ngoại quốc. Chúng tôi th́ c̣n ở đây chưa
biết đến bao giờ.” Ngay lúc đó chúng tôi
chưa nắm bắt được thông điệp
“rồi đi ngoại quốc” nhưng chúng tôi
hiểu ngay rằng những thanh niên Cộng Sản
đó đă bắt đầu tỉnh ngộ sau
thời gian mấy năm được chúng tôi
“cải tạo.” III-Chiến
dịch giải thoát tù “cải tạo” Có một
thời gian, công an trại thường chỉ mặt
chúng tôi và hăm dọa nhiều lần: “Nếu
bọn Mỹ không chịu bồi thường 3 tỷ
2 th́ các anh sẽ c̣n cải tạo mút mùa.” Câu hăm
dọa này không làm chúng tôi lo sợ mà, trái lại, làm
chúng tôi mừng thầm v́ đoán rằng có thể
ở bên ngoài xă hội đang diễn ra một
cuộc thương lượng giữa Hoa Kỳ và
Việt Cộng để giải thoát chúng tôi khỏi
cảnh tù đày. Cho dù đây chỉ là một hy
vọng rất mong manh nhưng chúng tôi cứ bám víu
lấy nó như người sắp chết đuối
vớ được cọc, để có lư do và can
đảm tiếp tục cuộc sống. Thế
rồi, không bao lâu sau, sự ước đoán của
chúng tôi được thân nhân vào thăm xác nhận
là đúng. Từ đó, trong ḷng chúng tôi, ngày nào cũng
như mở hội. Hy vọng được về sum
họp với gia đ́nh có nhiều triển vọng
trở thành sự thật. Tôi
được trả tự do vào cuối năm 1985,
sau 10 năm 4 tháng 10 ngày bị Cộng Sản bỏ tù.
Hội nhập lại vào xă hội bên ngoài, tôi
được biết vào năm 1976, Kissinger đă tuyên
bố: “Hoa Kỳ đang chuẩn bị b́nh thường
hóa bang giao với Việt Nam.” Việc b́nh thường
hóa bang giao không thành v́ trong cuộc đàm phán ở
Paris vào đầu năm 1977 Hà Nội khăng khăng
đ̣i Hoa Kỳ phải trả $3,250 triệu để
bồi thường chiến tranh. Lẽ cố nhiên là
Hoa Kỳ bác bỏ đ̣i hỏi vô lư đó v́ Hà
Nội đă không tôn trọng Hiệp Định Paris
năm 1973. Nền kinh
tế của Việt Nam mỗi ngày một sa sút.
Sự vô hiệu của kinh tế hoạch định
và t́nh trạng sa lầy trong chiến tranh Cambodia
khiến chế độ Hà Nội đứng trên
bờ vực thẳm. Trung Cộng đă trở thành thù
nghịch c̣n Liên Xô th́ cũng đang gặp khó khăn
nên không biết nương tựa vào ai. Hoa Kỳ là
sinh lộ duy nhất c̣n lại. Làm găng không
được, Hà Nội bắt đầu đấu
dịu. Đầu
thập niên 1980, cả Phạm Văn Đồng
lẫn Nguyễn Cơ Thạch đều bắn
tiếng là sẽ thả tù “cải tạo” nếu
Hoa Kỳ tiếp nhận. Hà Nội dùng tù “cải
tạo” như phương tiện mặc cả để
xin viện trợ của Hoa Kỳ. Hoa Thịnh Đốn
đáp ứng và diễn tiến của chiến
dịch giải thoát tù “cải tạo” được
ghi nhận như sau: -Ngày 11 Tháng
Chín, 1984, Ngoại Trưởng George Schultz chính thức
yêu cầu Hà Nội trả tự do và cho phép các tù nhân
chính trị được định cư tại Hoa
Kỳ. Ba tuần sau Tổng Thống Reagan gửi văn
thư chính thức đến các Bộ Ngoại Giao, An
Sinh Và Tư Pháp về việc thâu nhận những người
tù “cải tạo” Việt Nam. Hoa Kỳ
đồng ư gặp Đại Sứ Vơ Đông Giang
của Hà Nội tại Nữu Ước. Cuộc
đàm phán tiến hành trong bí mật. -Tháng
Bảy, 1988, phái đoàn Robert Funseth, phụ tá thứ trưởng
Ngoại Giao Hoa kỳ, đi Hà Nội họp với
phụ tá bộ trưởng Ngoại Giao Việt
Cộng Trần Quang Cơ để bàn về việc
trả tự do cho tù chính trị và đưa họ
đi định cư tại ngoại quốc. -Ngày 30 Tháng
Bảy, 1989, ông Robert Funseth và Vũ Khoan, thứ trưởng
Ngoại Giao Việt Cộng, kư kết tại Hà
Nội văn kiện về việc định cư tù
“cải tạo.” Qua thỏa
hiệp này 3,000 tù “cải tạo” và gia đ́nh
đă đến Hoa Kỳ trong những tháng đầu
tiên của năm 1990. Chương tŕnh định cư
này trù liệu đưa ra nước ngoài 400,000 người
th́ 20% đă đến bến tự do năm 1990, 30% năm
1991, 30% năm 1992, 10% năm 1993 và 10% c̣n lại vào
những năm kế tiếp. Dựa theo
các tài liệu đáng tin cậy người ta cũng
được biết là trong số quân nhân VNCH
được sang Mỹ định cư sau thời
gian cải tạo th́ 61% là cấp úy, 35% là cấp tá và
tướng và 4% là viên chức chính phủ. Con số
những người chết trong các trại “cải
tạo” chưa được xác định là bao nhiêu.
Tài liệu của Khu Hội Tù Nhân Chính Trị Hawaii,
thiết lập ngày 20 Tháng Tư, 1993, đưa ra
một con số rất thiếu sót là 587 người.
Đây chỉ là một phần nhỏ của số
“tử vong v́ cải tạo” trong thực tế. Cũng theo
một tài liệu khác chưa đầy đủ th́
số trại “cải tạo” CSVN thiết lập trên
toàn quốc sau năm 1975 là 80 trại bao gồm
cả hai trại ở các đảo Côn Sơn và Phú
Quốc). Quyết
định của Cộng Sản Việt Nam đưa
quân cán chính VNCH đi “cải tạo” lâu dài sau năm
1975 là một sai lầm trầm trọng. Sau khi chiếm
miền Nam, đáng lư ra Hà Nội phải biết
lợi dụng thời kỳ vàng son này để ḥa
hợp ḥa giải dân tộc và xây dựng tương
lai phồn thịnh cho đất nước. Giữa Tháng
Năm, 1975, bộ trưởng ngoại giao năm nước
ASEAN họp thường niên tại Kuala Lumpur đă bày
tỏ ư muốn thiết lập bang giao với các nước
Đông Dương. Trong thông cáo chung ngày 24 Tháng
Bảy, 1975, Phi Luật Tân và Thái Lan minh định rơ
là các căn cứ quân sự của nước ngoài
trong khu vực chỉ là tạm thời và khối SEATO
sẽ giải tán. Vào
thời gian đó Nhật cũng trù liệu một ngân
khoản $1,600 triệu để giúp năm nước
ASEAN và ba nước Đông Dương xây dựng khu
thịnh vượng chung Đông Nam Á. Tiếp theo, Tháng
Tám, 1977, Nhật lại kêu gọi sự hợp tác thân
hữu giữa các nước trong vùng kể cả
Miến Điện, và hứa viện trợ $5 tỷ
cho kế hoạch phát triển Đông Nam Á thành
một khu vực phồn vinh. Sau khi gia
nhập Liên Hiệp Quốc, Việt Nam c̣n được
gia nhập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế với
một khoản vay mượn đầu tiên là $35
triệu. Ngân Hàng Thế Giới cũng xúc tiến
kế hoạch giúp đỡ Việt Nam phát triển
kinh tế thời hậu chiến. Thừa kế
chỗ trống của VNCH, Hà Nội c̣n là hội viên
của ngân hàng phát triển Á Châu. Trong
bối cảnh đó nếu không có chính sách “cải
tạo” sai lầm th́ nhân dân hai miền Nam Bắc
đă cùng dồn nỗ lực vào việc hàn gắn
vết thương chiến tranh, thực hiện
việc ḥa hợp ḥa giải dân tộc để nhanh
chóng đưa đất nước đến
cảnh phú cường. Bị Hoa
Kỳ giăng bẫy CSVN đă xé bỏ Hiệp Định
Paris và xâm chiếm miền Nam để rồi liền
sau đó lại bị Trung Cộng giăng bẫy
nhử sang Cambodia và bị sa lầy ở đó.
Hậu quả của những quyết định mù quáng
này là một nước Việt Nam kiệt quệ và
tụt hậu, cam tâm làm chư hầu một lúc cho hai
thế lực thù địch. Cắt đất dâng
Trung Quốc để duy tŕ mạng sống chính
trị và quỳ gối ôm chân Hoa Kỳ để
kiếm miếng ăn. Chưa bao giờ trong lịch
sử dân tộc lại có một thời kỳ
nhục nhă như hiện nay. Đối
với Hoa Kỳ, bỏ rơi miền Nam Việt Nam
trong trận đồ quốc tế để thắng
Liên Xô và làm tan ră khối Cộng Sản là một
vấn đề chiến lược. Tiến hành
chiến dịch giải thoát tù “cải tạo”
Việt Nam để họ được sang sinh
sống và đoàn tụ tại Hoa Kỳ là một
vấn đề của lương tâm. Đứng
về phương diện quyền lợi của
Hiệp Chúng Quốc mà xét th́ trong cả hai việc làm
này Hoa Kỳ đều khôn ngoan và thắng lợi. Nguyễn
Cao Quyền |