Ôn
cỐ tri tân Đại-Dương |
Đối
với đại bộ phận dân chúng sống ở
phía Nam vĩ tuyến 17 th́ Quốc gia non trẻ
Việt Nam Cộng Hoà (1955-1975) bị bức tử vô cùng
phi lư, bất ngờ và vội vă. Kẻ
ở người đi trong bối cảnh quốc gia
hấp hối lệ thuộc vào sự rủi may
của số phận, dù trong trường hợp di
tản bán-chính-thức, hoặc băng ngàn vượt
suối, hoặc đánh đố với sóng cao
biển cả. Ra
đi chỉ với một mục đích duy nhất:
trốn thoát “hoạ cộng sản” dù chưa
biết tương lai sẽ ra sao. Que sera, sera như
tiếng hát nhộn nhịp của Doris Day vang vọng
khắp thời Việt Nam Cộng Hoà! Kẻ
ở lại bởi thiếu may mắn, hoặc v́
sợi dây thân tộc, hoặc do mùi hương đồng
gió nội, hoặc tin vào lương tri của con người
cùng ḍng máu, hoặc mơ hồ về chủ nghĩa
cộng sản. Họ
cam chịu tai trời, ách nước nên chỉ mong có
được đời sống b́nh dị, tay làm hàm
nhai dưới chế độ mới. Thương
thay, khát vọng tầm thường đó đều
nhanh chóng đội nón ra đi khi kẻ thắng
trận “không tim, thiếu óc” xuất hiện như
đội quân cướp ngày máu lạnh đă
vội vă áp đặt luật lệ, quy định
phi nhân lên toàn bộ xă hội miền Nam vĩ
tuyến 17. Ḍng
máu quật cường của dân tộc đă vùng lên
từ thôn quê đến thị thành, ở ngoài xă
hội, tận trong ngục tù qua các hoạt động
phục quốc, phá hoại, ám sát, chiến tranh tâm lư,
chống đối, phản kháng đă bị đoàn
quân Mác-Lê-Mao đàn áp dă man, khốc liệt trong
sự ghẽ lạnh của quốc tế, kể
cả các cường quốc có liên hệ đến
chiến tranh Việt Nam. Trong
vô số nhà tù, trại giam lớn nhỏ tại
Cộng Hoà Xă hội chủ nghĩa Việt Nam không
thiếu các khuôn mặt rắn rỏi chân chất nông
dân, trẻ trung linh hoạt của sinh viên học sinh,
thâm trầm như giới chính trị gia và khoa
bảng, bồng bột của giới truyền thông, nét
phong sương kiểu lính chiến. Nhưng, đôi
mắt của họ như cùng hướng về phía
tự do, dân chủ, phú cường cho dân tộc. Tuy
nhiên, khát vọng về Việt Nam sánh vai cùng năm châu
bốn biển, một chế độ nhân bản
vẫn tiếp tục được hâm nóng trong ḍng máu
Tiên Rồng bất chấp năm tháng lặng lẽ và
lạnh lùng trôi qua. Lần
đầu tiên trong lịch sử dân tộc đă có
một Cộng đồng Người Việt Hải
ngoại đông nhất cư ngụ khắp thế
giới, đặc biệt tại các cường
quốc dân chủ hiện đại và phát triển. Sau
những bỡ ngỡ ban đầu, người
Việt ĺa quê cha đất tổ v́ bất cứ lư
do ǵ để sinh sống trên xứ người cũng
canh cánh bên ḷng về tương lai của Đất
nước và Dân tộc dù vẫn mang quốc tịch
khác. Mặc
dù vậy, người Việt Hải ngoại đă
đi theo hai hướng đối nghịch: (1)
Phục vụ cho chính sách ngoại giao của Đảng
Cộng sản Việt Nam. (2) Tranh đấu cho một
nước Việt Nam không-cộng-sản. Nhóm
thứ nhất gồm viên chức của các Toà Đại
sứ, Lănh sự quán, doanh nhân, điệp viên phái
triển, du học sinh, di dân từ Cộng hoà Xă
hội chủ nghĩa Việt Nam và số người
Việt Hải ngoại đang làm ăn hoặc giao
dịch với trong nước. Qua
các phương tiện và khuôn mặt khác nhau, nhưng,
họ cùng chung mục đích nhằm nâng cao vị
thế của Nhà nước Cộng hoà Xă hội
chủ nghĩa Việt Nam trên trường quốc
tế; và biến người Việt hải ngoại
thành con gà đẻ trứng vàng. Khối
người Việt hải ngoại đông nhất mang
tinh thần quốc gia dân tộc gồm có lớp di
tản, thuyền nhân, ra đi có trật tự (H.O.),
đoàn tụ gia đ́nh vẫn canh cánh bên ḷng lời
thề “diệt cộng sản, cứu dân tộc”. Hành
động tàn ác, man rợ của Đảng Cộng
sản sau khi thống nhất Việt Nam không chỉ
nằm trên các bản tin quốc tế mà c̣n hằn sâu
từng khuôn mặt già, trẻ, lớn, bé sau cơn
vật lộn chín chết một sống trên Biển
Đông, qua các trại tù khổ sai ở nơi chôn
nhau, cắt rốn. Nỗi
đau của dân tộc không bút mực nào tả
xiết đă thôi thúc tinh thần “diệt cộng
sản, cứu dân tộc” trỗi dậy mănh liệt
ở hải ngoại qua vô số hoạt động
đă, đang và sẽ diễn ra đều không ngoài
khát vọng thiết lập một thể chế dân
chủ tự do tại Việt Nam làm nền tảng cho
sự phát triển toàn diện và hài hoà của dân
tộc Rồng Tiên. Tuy
nhiên, khát vọng to lớn mà kết quả chưa
được như ư buộc chúng ta b́nh tĩnh nh́n
từ kinh nghiệm quá khứ mà rút được bài
học quư giá và cần thiết cho Đất nước
và Dân tộc. Thuốc
đắng dă tật, Mật ngọt chết ruồi
chẳng phải là những đúc kết kinh nghiệm
sống của tiền nhân hay sao? Môi
trường dân chủ tự do hiện đại
ở Tây Phương tạo điều kiện cho người
Việt hải ngoại hoạt động ngoài ṿng
kiềm toả của Nhà nước Cộng hoà Xă
hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, cũng là nơi
thuận tiện cho các Toà Đại sứ, Lănh sự
quán cộng sản thu thập và cập nhật mọi
sinh hoạt của các tổ chức, nhóm chống
cộng để lập phương án đối phó.
Về biện pháp quân sự Vào
giai đoạn 1980, đa số người Việt
hải ngoại ủng hộ giải pháp quân sự v́
muốn thấy chế độ cộng sản sụp
đổ nhanh nhất. Phụ
tá Giáo sư tại Đại học Nanterre, Pháp,
Trần Văn Bá (1945-1985) tham gia Mặt trận
Thống nhất các Lực lượng Yêu nước
Giải phóng Việt Nam của Lê Quốc Tuư và Mai Văn
Hạnh để phối hợp hoạt động
trong và ngoài nhằm lật độ chế độc
tài cộng sản. Năm
1984, Trần Văn Bá xâm nhập vào Việt Nam đă cùng
với Mai Văn Hạnh (phụ trách lực lượng
vũ trang ở trong nước) đă bị bắt
ngay khi xâm nhập vào bờ biển Minh Hải, Cà Mau và
119 đồng chí. Chiến sĩ Trần Văn Bá
bị cộng sản xử tử vào tháng 1-1985. Trần
Văn Bá xác nhận lực lượng lật đổ
nhà cầm quyền cộng sản phải xuất phát
từ quốc nội. Nhưng, hành động thiếu
thận trọng: (1) Đánh giá thấp khả năng
Cục T́nh báo Nước ngoài của Hà Nội nên
bị bắt trọn ổ. Từ đấy, không c̣n
ai biết tông tích Chủ tịch Lê Quốc Tuư. (2)
Lực lượng kháng chiến quốc nội
thiếu an-toàn-khu, thiếu sự hỗ trợ chính
trị, tài chính, ngoại giao của quốc tế.
Lực lượng nổi dậy và kháng chiến
của Hồ Chí Minh được Cộng sản
Quốc tế yểm trợ mọi mặt, có Trung
Quốc làm hậu cứ và tiếp tế lương
thực nên từ nhỏ có thể thành lớn và an toàn.
Cựu
Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh (1935-1987) đă công
khai Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải
phóng Việt Nam từ tháng 4-1980 tại California. Năm
sau, thiết lập chiến khu gần biên giới Lào-Thái
Lan để thực hiện kế hoạch Đông
Tiến. Đợt Đông Tiến thứ ba và thứ
tư do Hoàng Cơ Minh đích thân chỉ huy bị
phục kích gần biên thuỳ Việt Nam nên đă hy
sinh. Thất
bại của Mặt trận có thể đến
từ các nguyên nhân: (1) Lào lúc đó chịu sự chi
phối của Hà Nội nên vượt biên giới là
đi vào cửa tử. (2) Chiến tranh du kích không
thể phô trương rầm rộ như một
lực lượng chính quy. (3) Dối trá khó che dấu
trong nền dân chủ tự do kiểu Tây Phương.
(4) Thiếu an-toàn-khu nên không thể bảo đảm
an ninh và tiếp liệu, tuyển bộ rất khó khăn.
(5) Quốc tế chán bàn cờ Đông Dương,
đặc biệt dân chúng và chính phủ Mỹ
chẳng muốn can dự vào vấn đề Việt
Nam sau 1975. Cựu
Đại tá Vơ Đại Tôn (1936-) định cư
ở Úc Đại Lợi đă thành lập Liên minh
Quang phục Quê hương đă bị bắt tại
biên giới Lào-Thái Lan gần Việt Nam cùng với 2
đồng chí. Trong cuộc họp báo do Nhà nước
Cộng sản tổ chức đă chớp micro dơng
dạt: “Tôi, Vơ Đại Tôn, Chỉ huy trưởng
Chí Nguyện Đoàn Phục Quốc hoàn toàn chịu trách
nhiệm về dự mưu xâm nhập Việt Nam”. Ông
đă được thả về Úc năm 1991 sau
một thập niên bị giam cầm. Tuy
mục tiêu lật đổ chế độ độc
tài cộng sản chưa thành, nhưng, những người
sử dụng biện pháp quân sự đă thể
hiện ư chí quật cường, tinh thần bất
khuất vốn làm nền tảng dựng nước và
giữ nước của ṇi giống Rồng Tiên.
Trên phương diện chính trị Người
Việt hải ngoại có điều kiện theo dơi sát
t́nh h́nh đấu tranh bằng phương pháp
bất-bạo động từ năm 1980 của các
quốc gia vệ tinh Liên Xô hơn đồng bào
quốc nội nên chuyển sang biện pháp đấu
tranh bất-bạo-động. Cách
mạng bất-bạo động thành công tại
nhiều quốc gia Đông Âu từ năm 1989 kéo theo
sự tan ră Hiệp ước Varsaw và Liên Xô vào năm
1991 đă đặt Đảng Cộng sản Việt
Nam vào thế chông chênh, hiểm nghèo khi mất hậu
phương vững mạnh nhất là Đệ tam
Quốc tế trong bối cảnh c̣n thù địch
với Trung Quốc. Người
Việt hải ngoại vội vă chuẩn bị kế
hoạch tiếp thu chính quyền tại Việt Nam và
thảo luận công khai việc thiết lập chế
độ dân chủ đa nguyên theo mô h́nh Tây Phương
tiên tiến nhất. Những
cuộc hội thảo, tranh luận sôi nổi, gay
cấn giữa trí thức xă hội chủ nghĩa và
giới khoa bảng, truyền thông hải ngoại kéo dài
nhiều năm cũng chẳng làm thay đổi môi trường
chính trị tại Công hoà Xă hội chủ nghĩa
Việt Nam mà c̣n giúp ĐCS qua cơn hấp hối. Con
cháu Rồng Tiên đă lăng quên hai nguyên tắc căn
bản của cuộc cách mạng bất-bạo-động:
(1) Không thoả hiệp mà lật đổ chính
quyền. Lănh tụ Công đoàn Đoàn Kết Ba Lan,
Lech Walesa từ chối lời mời làm Thủ tướng
của Tổng thống Cộng sản Vojciech Jaruzelski. Lănh
tụ đối lập tại Tiệp Khắc, Vavlav
Havel cương quyết không thoả hiệp với chính
quyền cộng sản. (2) Uỷ viên Bộ chính
trị Liên Xô, Boris Yeltsin đă trở thành Tổng
thống Nga sau năm 1991 nói “Cộng sản không
thể cải cách mà phải thay thế”.
Chủ
trương cải cách chế độ cộng
sản độc tài thành dân chủ tự do giống
như đặt cái cày trước con trâu. Nhằm
giảm nhẹ áp lực nên năm 1993, Hà Nội đồng
ư cho một số nhân vật thuộc Phong trào
Thống nhứt Dân tộc và Xây dựng Dân chủ
của Nguyễn Đ́nh Huy (quốc nội) và Stephen
Young (Hoa Kỳ) tổ chức hội thảo tại Hà
Nội để đối thoại với Nhà nước.
Mẽ lưới giăng ra đă tóm gần hết cơ
sở của đảng này ở quốc nội và làm
mất uy tín, gây chia rẽ trong hàng ngũ chống
Cộng tại hải ngoại. Giáo
sư Lê Xuân Khoa và một số trí thức tại
hải ngoại thường xuyên tiếp túc với các
phái đoàn CSVN đến Hoa Kỳ, đặc biệt
vào năm 2003, họ long trọng đón tiếp Thứ
trưởng Ngoại giao cộng sản Nguyễn Đ́nh
Bin rồi hướng dẫn đi thăm Ngân hàng
Thế giới và Đại học Johns Hopskins. Do
chủ trương hoà giải dân tộc của Nhóm Lê
Xuân nên Bin đồng ư cho họ tổ chức
“hội thảo về mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xă hội công bằng dân chủ văn minh”
tại Hà Nội vào đầu năm 2004. Các
Toà Đại sứ Cộng sản đă gửi
thiệp mời đi khắp nơi. Bổng nhiên, ngưng
lại v́ lư do “c̣n nhiều việc quan trọng hơn”.
Sự
thất bại hiễn nhiên do: (1) Chưa có một
đảng cộng sản nào từ bỏ độc
quyền lănh đạo. (2) Tương quan lực lượng
quá chênh lệch nên hoà giải hoà hợp dân tộc
chỉ có giá trị khẩu hiệu. (3) Hà Nội
chỉ chấp nhận hoà hợp, hoà giải dân
tộc thay cho câu “hoà giải, hoà hợp dân tộc”
trong Hiệp định Paris năm 1973. Một
số công dân Việt Nam Cộng Hoà có thân nhân,
quyến thuộc là đảng viên cộng sản
đă cố “hoà hợp” với Nhà nước
Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng,
ít năm sau cũng đành ĺa bỏ thiên đường
xă hội chủ nghĩa. Chính
phủ lưu vong mọc lên như nấm và gây chia
rẽ, tranh căi triền miên trong cộng đồng người
Việt hải ngoại v́ ai cũng thấy chỉ duy
nhất có ḿnh xứng đáng hơn cả! Cộng
đồng Người Việt hải ngoại ở
Hoa Kỳ đông nhất cũng chỉ chiếm 0.7% dân
số nên khó ảnh hưởng tới chính sách
ngoại giao của lưỡng đảng. Chúng ta có
chấp nhận sự thật hay cứ tiếp tục
phóng đại về sức mạnh biểu kiến
của người Mỹ gốc Việt?
Biện pháp kinh tế Do
Liên Xô sụp đổ không tốn một viên đạn
khiến các chiến lược gia Tây Phương cho
rằng “kinh tế phát triển sẽ kéo theo chính
trị dân chủ” nên đổ tiền vào Trung
Quốc, Nga, Việt Nam thông qua đầu tư,
viện trợ, chuyển giao kỹ thuật nhằm
tạo ra tầng lớp trung lưu trong xă hội làm
nền tảng dân chủ”. Trung
Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai
trên thế, chỉ đứng sau Hoa Kỳ, nhưng,
số tỉ phú đô la đứng đầu thế
giới. Bắc Kinh đem tiền thao túng thế
giới và khuyến khích các nước khác đi theo mô
h́nh Xă hội chủ nghĩa đặc sắc Trung
Quốc. Chủ tịch Tập Cận B́nh trở thành
ông vua không ngai. Thương
ước Việt-Mỹ ra đời năm 1994
được giới chuyên gia kinh tế và chính
trị gốc Việt tuyên bố “dùng kinh tế đánh
cộng sản”. Hà
Nội bắn tiếng sẽ cho người ngoài Đảng,
kể cả Việt Kiều tham gia nội các. Đồng
hành với khẩu hiệu Con Rồng Việt Nam
Cất cánh của ĐCS, một nhóm chuyên gia ở
hải ngoại (như Phạm Đỗ Chí ở
Mỹ, Trần Nam B́nh ở Úc) ra mắt tập sách “Đánh
thức con Rồng ngũ quên. Cho
tới nay Rồng chưa cất cánh mà đă găy! Năm
2006, Bộ trưởng Nội vụ Cộng sản
Đỗ Quang Trung cho biết có thể mời người
ngoài Đảng làm bộ trưởng. Lập tức,
Tiến sĩ Phạm Đỗ Chí cho tờ Việt Báo
biết “muốn làm Bộ trưởng Kế
hoạch” phù hợp với khả năng chuyên môn
về kinh tế và tài chánh khi làm việc cho Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) và giảng dạy
tại các Đại học ở Hoa Kỳ. Cho
tới nay, Tiến sĩ Chí vẫn làm chuyên gia tư
vấn tại Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa
Việt Nam. ĐCSVN
xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng xă hội chủ nghĩa để
kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế quốc dân
nhằm tóm thâu mọi lợi nhuận vào tay tập
đoàn lănh đạo từ trung ương cho tới
địa phương. Giao
cấp trung lưu lo bảo vệ quyền lợi
nhờ ĐCS tạo ra nên quyết tâm bảo vệ
chế độ hơn t́m cách thay thế hoặc
lật đổ. Do đó, Việt Nam hiện nay
chỉ có nền kinh tế tập trung giả dạng
thị trường. Hà
Nội ngày càng thâu tóm, làm chủ các trung tâm kinh
tế của người Việt hải ngoại như
đă làm chủ trọn vẹn các cộng đồng
người Việt ở Nga, Đức và các quốc
gia Đông Âu.
Về biện pháp nhân quyền Một
số tổ chức Người Việt Hải
ngoại sử dụng nhân quyền như loại vũ
khí duy nhất có thể hạ gục Cộng sản
Việt Nam nên chạy đôn chạy đáo khắp
thế giới mà t́nh trạng nhân quyền tại
Cộng hoà xă hội chủ nghĩa ngày càng tệ hơn.
Cuộc
vận động đưa Việt Nam trở lại
“quốc gia đáng quan tâm” về tôn giáo vẫn chưa
thấy triễn vọng thành công. Liên
đoàn Lao động Việt Nam vẫn được
Tổ chức Lao động Quốc tế công nhận
và trợ giúp mọi phương diện. Hà
Nội cam kết về tôn trọng quyền công dân,
về thành lập Công đoàn Tự do khi kư Thương
ước Việt-Mỹ 1994 và gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới 2006, nhưng,
tới nay chẳng có điều nào được
thực hiện. Mọi
cố gắng của nhiều tổ chức nhân
quyền ở hải ngoại chưa gặt hái
được thành quả mong muốn do: (1) Nội
lực yếu mà khoa trương nhiều. (2) Các nước
Tây Phương coi nhân quyền như một áp lực
khi giao dịch với các quốc gia khác mà vẫn
sẵn sàng nhượng bộ v́ quyền lợi riêng
tư. (3) Xă hội Dân sự Quốc doanh (GONGO) của
Hà Nội vẫn được ở vào vị trí ban
tổ chức của Diễn đàn Người dân
ASEAN. Không
ai hoặc quốc gia nào có thể đem lại nhân
quyền cho Việt Nam, ngoại trừ dân chúng ở
Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguồn
gốc độc tài, kinh tế bát nháo, nhân quyền
bị chà đạp tại Việt Nam đều do
Đảng Cộng sản tạo ra nên mọi giải
pháp vá víu đă chẳng hữu hiệu. Người
Việt Nam trong và ngoài nước, nếu muốn
tự chủ tự cường th́ phải tập trung
mọi nguồn lực, trí tuệ tổng hợp để
lật đổ sự thống trị của Đảng
Cộng sản. Hăy để tự ái cá nhân và hành
động riêng rẽ trôi vào quá khứ. Mong thay!
Đại-Dương |