Những ‘món nợ’ của một tân Phó Đề Đốc Mạnh Kim |
Bài
báo của tác giả Tom McCarthy trên The Daily Oklahoman đề
ngày 20-5-1975 với h́nh cậu thiếu niên Nguyễn
Từ Huấn ở trang nhất có nhắc đến
chi tiết cậu thiếu niên Từ Huấn có khả
năng trở thành nghệ sĩ violin. Tuy nhiên, tên
tuổi ông Huấn sau này được vinh danh không
phải trên sân khấu giao hưởng. Ông khoác áo nhà
binh. Con đường binh nghiệp đă giúp ông
trở thành người Mỹ gốc Việt đầu
tiên đạt đến cấp bậc Phó Đề
đốc Hải quân Hoa Kỳ…
Một
trong những bằng sáng chế của ông Huấn. (H́nh:
Nguyễn Từ Huấn cung cấp) Năm 1993, internet chưa
phát triển, cả nước Mỹ chỉ có
khoảng 20 website.
Tuy nhiên, ông Huấn đă nghĩ đến việc làm
thế nào có thể sử dụng network để
phục vụ quân đội và hỗ trợ tác
chiến. Ư tưởng của ông được
một đề đốc ủng hộ. Ông Huấn
được mời vào Ngũ Giác Đài tường
tŕnh cho giới lănh đạo Hải quân. Tiếng nói
của anh thiếu úy Huấn trở nên lạc lơng
giữa những hoài nghi. Cho đến thời điểm
đó, rất ít người có thể h́nh dung cái
gọi là “network warfare”. Không đầy 10 năm sau,
khi nước Mỹ bước vào cuộc chiến Vùng
Vịnh lần hai (2003), kỹ thuật chiến tranh không
gian mạng đă trở thành một trong những
yếu tố quyết định thắng bại.
Cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai cũng là
thời điểm thiếu tá Huấn được
đưa sang Afghanistan và Iraq, với vai tṛ sĩ quan
chỉ huy đơn vị kỹ thuật giúp phá
hủy các thiết bị kích nổ bom từ xa của
khủng bố… “Một trong những thử thách khó
nhất đối với tôi là phải đi một bước
trước kẻ thù” – ông Huấn trả lời phóng
viên Eric Schmitt trên New York Times số ra ngày 6-2-2006. Thiếu tá Huấn (thứ hai, phải sang) trong những ngày làm việc tại Iraq. (H́nh: Nguyễn Từ Huấn cung cấp) “Cách
đây 44 năm, tôi là một trong những người
tỵ nạn, ḷng lo lắng cho một tương lai
bất định nhưng vẫn cảm thấy vô cùng
biết ơn khi đến được đây.
Những h́nh ảnh tôi c̣n nhớ rơ mồn một khi
đặt chân đến Trại Asan ở đảo
Guam này, giờ là công viên Asan Beach, là những thủy
thủ và thủy quân lục chiến Mỹ phơi ḿnh
dưới cái nắng cháy da, dựng lều và lán
thức ăn, phát nước uống và đồ
ăn nóng, giúp đỡ và chăm sóc mọi người
với thái độ tử tế và kính trọng…
Những người lính đó đă mang lại
cảm hứng cho tôi cống hiến cho Hải quân
Mỹ đến tận hôm nay”… Phát biểu trên
của Đại tá Nguyễn Từ Huấn trong
dịp khánh thành tượng Lone Sailor tại Guam ngày
30-4-2019 đă cho thấy tại sao ông quyết tâm gia
nhập và cống hiến cho quân đội (tượng
đài Lone Sailor do chính ông Huấn khởi xướng
với sự thực hiện của US Navy Memorial). Đại
tá Huấn trong lễ khánh thành tượng Lone Sailor,
Guam, 30-4-2019 (The Guam Daily Post). Ông
có một sứ mạng khác trong lẽ sống của
ḿnh. Ông định h́nh cuộc đời ông bằng
những định nghĩa khác với những đo lường
về vật chất. Với ông, có nhiều cách để
“trả nợ” nước Mỹ nhưng ông đă
chọn binh nghiệp, v́ quân đội mới là h́nh
ảnh đại diện bảo vệ cho quốc gia nơi
đă cưu mang những người tỵ nạn như
ông, một quốc gia từng là ngọn hải
đăng cho những giá trị nhân bản, về
tự do, dân chủ và nhân quyền. “Món nợ”
đối với nước Mỹ không phải là món
nợ lớn nhất đối với ông Huấn. Có
một món nợ khác chất chứa gánh nặng lương
tri thậm chí nặng nề hơn. Nó có ư nghĩa
lớn hơn cả. Nó ám ảnh ông như một
lời thề mà ông nguyện phải làm, như
một cách để báo hiếu cho cha ông - cố Đại
tá Chỉ huy trưởng Trường thiết giáp VNCH
Nguyễn Tuấn, như một cách để làm
mẹ ông mỉm cười nơi chín suối, như
một cách để “trả lời” cho một
cuộc chiến tàn khốc từng làm điêu linh dân
tộc mà toàn bộ gia đ́nh ông là nạn nhân, để
cuối cùng, cho thấy rằng, ḥa b́nh có giá trị
như thế nào và tại sao bằng mọi giá
phải bảo vệ ḥa b́nh. Gia
đ́nh cố Đại tá Nguyễn Tuấn (tất
cả đều bị sát hại, trừ ông Nguyễn
Từ Huấn-đứng giữa; ảnh chụp năm
1967). (H́nh: Nguyễn Từ Huấn cung cấp) Rồi
có một đặc công chĩa súng vào đầu
Huấn khi phát hiện đứa trẻ 9 tuổi duy
nhất c̣n sót lại. Dưới ánh sáng hỏa châu
từ bên ngoài, tay đặc công cộng sản đối
diện ánh mắt không hề lộ chút sợ hăi
của cậu bé Huấn. Một vết đạn,
từ vụ thảm sát trước đó, trúng vào
đầu khiến mặt mày Huấn bê bết máu. Có
lẽ đó cũng là lư do khiến toán đặc công
không buồn bận tâm ban cho Huấn “một phát
đạn ân huệ”, bởi nghĩ rằng ông
sẽ không thể nào sống nổi. Tuy nhiên, ông đă
không chết. |