Tham vọng địa chính trị đằng sau Sáng kiến Vành đai và Con đường Phần 1 Trần Hùng (biên dịch) |
Ở biên giới Trung Quốc với Kazakhstan,
một thành phố Con đường tơ lụa
mới đă mọc lên với tốc độ nhanh
đến mức Google Earth c̣n chưa kịp bắt
đầu ghi lại những ṭa nhà cao tầng hiện
đang nổi bồng bềnh trên màn sương mùa
đông của thảo nguyên. Nơi từng là một
thị trấn biên giới khó khăn giờ đang có
200.000 người sinh sống, với màn h́nh video ngoài
trời khổng lồ chiếu những đoạn phim
tung hô con đường tơ lụa mới, cùng các
nhà hàng phục vụ sashimi và rượu vang châu Âu.
Khorgos đă
trở thành cửa ngơ của Trung Quốc nối
với Trung Á và Châu Âu. Khorgos như nằm giữa chốn hư không:
Điểm cách xa các đại dương nhất
nằm gần đó. Nhưng bây giờ, một siêu
lục địa Á-Âu mới đang h́nh thành từ
đây. Các dự án được hứa hẹn không
chỉ có đường sắt xuyên Trung Á đến
châu Âu mà c̣n các kế hoạch khổng lồ khác,
một số đă được triển khai, bao
gồm các đường ống, đường
bộ, đường sắt cao tốc và đường
truyền cáp quang. Ông
Tập đă đưa ra sáng kiến này trong hai bài phát
biểu vào năm 2013. Bài đầu tiên ở Astana (nay là Nursultan),
thủ đô Kazakhstan, nơi ông tŕnh bày chính sách
phần trên lục địa, “vành
đai kinh tế Con đường tơ lụa”. Nó kết nối Trung Quốc với Trung Á, Đông
Nam Á và Nam Á, tới tận Châu Âu. Từ “vành đai”
để chỉ một thứ ǵ đó lớn hơn
giao thông, năng lượng hoặc các nút hạ
tầng riêng lẻ. Thay vào đó, đó là một
mạng lưới cơ sở hạ tầng kết
nối với nhau phát triển thành một thứ to
lớn hơn: các khu công nghiệp và hành lang kinh
tế, với các hoạt động sản xuất,
hậu cần, xây dựng và nhiều thứ nữa. Các cuộc tranh luận về BRI đă bắt
đầu ngay từ đầu. Ở một cấp
độ nào đó, đây chỉ đơn thuần là
việc mở rộng những ǵ Trung Quốc đă làm
trong một thời gian, kết nối với các nhà
cung cấp tài nguyên lớn trên toàn thế giới, cũng
như các thị trường châu Âu. Mặt khác, đó
là một phản ứng với cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-9, vốn làm
giảm một phần lớn nhu cầu đối
với hàng hóa Trung Quốc. Bài học là trong tương
lai Trung Quốc phải tự tạo ra thị trường
ở nước ngoài. Ở cấp độ thứ
ba, nó thể hiện sự quốc tế hóa chính sách
công nghiệp của Trung Quốc. Đối mặt
với t́nh trạng dư thừa thép, xi măng và các
mặt hàng khác, một đảng có tính chính danh
dựa trên thành tích tạo việc làm và đầu tư
khó có thể đóng cửa các nhà máy như các nước
phương Tây có thể làm. Thay vào đó, họ
phải cố gắng xuất khẩu các sản
phẩm này. Cuối cùng, vào thời điểm phương
Tây dường như vấp ngă cả về tăng trưởng
và năng lực lănh đạo toàn cầu, đây là
một khúc quanh trên con đường lịch sử.
Mọi thứ đều chưa rơ ràng, nhưng cơ
hội của Trung Quốc đă đến và cần
phải nắm bắt được nó. BRI không chỉ là về những điều này.
Ông Tập gọi đây là một dự án kéo dài hàng
thập niên, trong khi một số ước tính cho
rằng chi tiêu cho các dự án đă thực hiện và
dự định
là khoảng 6 ngh́n tỉ đô la. Nhưng
nếu sàng lọc các dự án đă được
thực hiện hoặc kư kết, sáng kiến này
nhỏ hơn nhiều so với ước tính trên. Tuy nhiên, nó rất rộng và thay đổi liên
tục, nên khó nói là bạn nên ủng hộ hay
chống lại nó. Bất kỳ khoản đầu tư
nào mà Trung Quốc thực hiện ở nước ngoài
đều có thể, và thực tế, đều
được gộp vào BRI. Ngay cả bên trong Trung Quốc, nơi Đảng
muốn BRI được ca ngợi không ngớt,
một sự mơ hồ đáng ngạc nhiên vẫn
đang ngự trị. Không có con số chính thức nào
được công bố về việc dự án nào
được đầu tư ở đâu. Dự
đoán đáng tin cậy nhất là 400 tỷ đô la
tài trợ, gồm viện trợ không hoàn lại nhưng
phần lớn là các khoản vay, đă hoặc sắp
được chi cho hơn 160 quốc gia nơi có ba
phần năm dân số thế giới sinh sống.
Nếu tính theo giá trị thực, nó lớn hơn
nhiều Kế
hoạch Marshall (130 tỷ đô la tính theo giá đô la
ngày nay) mà Mỹ đă chi để hồi sinh các
nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá của Châu
Âu. Nhưng lợi ích kinh tế của các dự án
thường không lớn như tuyên bố. Một
nỗ lực lớn, từ dưới lên để
quảng bá BRI và tung hô ông Tập đă tạo ra các
kế hoạch vội vàng và trùng lặp. Nhiều doanh
nghiệp cấp tỉnh lần đầu tiên “ra
biển lớn” không có kinh nghiệm hoạt động
ở nước ngoài. Tại Diễn đàn BRI lần
đầu tiên ở Bắc Kinh năm 2017, vốn
được tổ chức để truyền bá
về sự hào phóng của Trung Quốc, đă
xuất hiện sự rối loạn. Tại diễn
đàn lần thứ hai tháng Tư năm ngoái, các hướng
dẫn chặt hơn đă được công bố
về điều kiện cho vay, môi trường và
nhiều thứ khác nữa. Các dự án có thể không được như
kỳ vọng về kinh tế v́ một lư do khác:
ưu tiên của họ trên hết là chiến lược,
nhằm đảm bảo nguồn cung cấp tài nguyên
thiên nhiên quan trọng, và để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế tại Trung Quốc. Thượng
Hải hiện nhận được một nửa lượng
khí đốt tự nhiên từ Turkmenistan. Những đường ống như vậy giúp
Trung Quốc vượt qua cái gọi là “lưỡng
nan Malacca”: nguồn cung cấp dầu và khí đốt
bằng đường biển có thể dễ dàng
bị chặn trong thời chiến. Ở những nơi khác, lợi ích chiến lược
có thể đến từ việc phát triển
cảng và củng cố sự thống trị trong ngành
vận tải biển toàn cầu. Một ngày nào đó,
đó có thể là bước đệm giúp Trung
Quốc triển khai sức mạnh hải quân ở nước
ngoài, gây ra những hệ lụy lớn đối
với Nhật Bản, Đông Nam Á, Ấn Độ và
các quốc gia khác phụ thuộc vào các tuyến
đường biển bận rộn nhất thế
giới. Bằng cách triển khai cơ sở hạ
tầng trên khắp vùng đất Á-Âu, Trung Quốc
trở thành cường quốc không thể thiếu
trong một siêu lục địa mới nổi. Điều
quan trọng là nhà nước chỉ đạo các
doanh nghiệp khổng lồ thực hiện đấu
thầu quốc gia ở trong nước, và các ngân hàng
quốc doanh cung cấp hỏa lực tài chính. Từ quan điểm của Đảng Cộng
sản, vun đắp các mối quan hệ chính trị,
và cái mà đảng thích gọi là “quan hệ con người
với con người”, đang bẻ cong thế
giới, từng chút một, theo ư chí của Trung
Quốc. Như Bruno
Maçăes, một cựu bộ trưởng ngoại giao
Bồ Đào Nha, đă viết trong cuốn “The Dawn of
Eurasia”, hiệu ứng lan tỏa từ cơ sở
hạ tầng, thương mại và tài chính vào chính
trị, văn hóa và an ninh không phải là một
ẩn ư trong dự án này, mà là đặc điểm
cơ bản nhất của nó. Trên tất cả, BRI là một dự án xây
dựng thương hiệu lớn nhất thế
giới. Một quốc gia hoặc nhà lănh đạo nước
ngoài thường đăng kư tham gia BRI dưới
dạng một bản ghi nhớ mơ hồ, trong đó
ca ngợi “hợp tác hai bên cùng thắng”. Sau đó,
rất khó để tỏ ra không trung thành. Khen
ngợi BRI và bạn sẽ được tưởng
thưởng. C̣n nếu chỉ trích nó, bạn không
chỉ xúc phạm Trung Quốc. Bạn c̣n xúc phạm
ít nhất là “tinh thần Con đường tơ
lụa”, “ḥa b́nh và hợp tác, sự cởi mở
và ḥa nhập, học hỏi lẫn nhau và hai bên cùng có
lợi”. Việc xây dựng thương hiệu như
vậy, với các biện pháp “trừng phạt”
đi kèm, rất mạnh mẽ và có hiệu quả. Ngược
lại, ḷng trung thành của nước ngoài giúp
củng cố thương hiệu trong con mắt người
dân Trung Quốc: hăy nh́n vào một đất nước
Trung Quốc ḥa b́nh, cởi mở và hướng
tới tương lai, sẵn sàng tham gia các nỗ
lực v́ lợi ích chung. Tranh căi và triển vọng
Không phải ai cũng đón nhận luận
điệu đó. Những chỉ trích gay gắt
nhất đến từ siêu cường đương
nhiệm, quốc gia mà sự thống trị toàn
cầu của nó đang bị BRI thách thức.
Chiến lược An ninh Quốc gia của Mỹ tuyên
bố rằng BRI là một dạng “kinh tế săn
mồi”; vay tiền từ Trung Quốc sẽ khiến
các quốc gia rơi vào một cái bẫy bày sẵn. Vào
tháng 12, Adam Boehler, người đứng đầu
Tập đoàn Tài chính Phát triển Quốc tế
mới của Mỹ, nói với Financial Times rằng các
khoản đầu tư ở nước ngoài của
Trung Quốc “100%” là thiếu bền vững, v́ gánh
nặng nợ nần, cơ sở hạ tầng xây
dựng chất lượng kém, tham nhũng và thiếu
minh bạch. Đó là một lời nói cường điệu.
Chắc chắn, Trung Quốc áp dụng các tiêu chí cho
vay thấp hơn so với các thành viên của Câu
lạc bộ Paris (gồm các quốc gia chủ nợ).
Tuy nhiên, cũng không có một âm mưu xấu xa định
sẵn. Thật vậy, đó là một phần của
vấn đề thực tế. Gần như mọi
dự án lớn đều gặp những va vấp
trong quá tŕnh thực hiện. Các thỏa thuận thường
được tái đàm phán mà công chúng không
biết, với lăi suất thấp hơn và thời
gian ân hạn cũng như trả nợ dài hơn. Trung Quốc biết sự linh hoạt giúp xây
dựng h́nh ảnh của ḿnh tốt nhất. Họ
cung cấp vốn phát triển và sự hậu
thuẫn ngoại giao mà các nước khác không cung
cấp. Nếu Mỹ muốn các nước khác
phản đối BRI, họ cũng phải làm việc
đó thông qua sự hấp dẫn, bằng cách cung
cấp cho các nước đang phát triển những
lựa chọn tốt hơn Trung Quốc. Sự kết
nối mới cũng phải hoạt động
hiệu quả đối với các nước tham gia. Vào tháng Giêng năm 2017, một chuyến tàu
lặng lẽ dừng lại ở ngoại ô London. Các
container của nó đă bắt đầu hành tŕnh 12 ngày
trước đó ở miền đông Trung Quốc,
nhanh hơn một nửa thời gian so với khi đi
bằng đường biển, với chi phí thấp hơn
ít nhất một nửa so với đường hàng
không, và chuyến hàng đi qua Khorgos. Tuyến đường
này đang nhanh chóng trở nên phổ biến hơn.
HP, một người khổng lồ ngành máy tính
của Mỹ, đă chuyển các nhà máy sản
xuất máy tính của ḿnh đến thành phố Trùng
Khánh trong nội địa Trung Quốc, xây dựng mô
h́nh kinh doanh của ḿnh dựa trên tuyến đường
sắt xuyên qua Khorgos đến Hà Lan. Một phần do sự dịch chuyển của
HP, các chuyến tàu từ Trung Quốc đến châu Âu
đă tăng tần suất từ ba chuyến một
tuần hồi năm 2013 lên hơn 25 chuyến. Một
khu công nghiệp và trung tâm phân phối đang
được xây dựng ở Khorgos với 600
triệu đô la đầu tư từ chính quyền
tỉnh Giang Tô, cách Khorgos 3.700km về phía đông.
Họ hy vọng sẽ thu hút được các doanh
nghiệp phục vụ hàng hóa cho bán lẻ, như
đóng gói và gắn thẻ giá lên các sản phẩm,
cũng như kéo các nhà sản xuất công nghiệp
nhẹ di chuyển nhà máy từ những vùng có chi phí
đắt hơn của Trung Quốc. C̣n theo chiều ngược
lại, mỗi tuần BMW có một số chuyến tàu
đến Trung Quốc, thị trường lớn
nhất của hăng. Tuy nhiên, bất chấp tất
cả các kết nối mới này, nhiều điều
vẫn có thể, và thực sự, đang gặp
vấn đề. (C̣n tiếp 4 phần) T.H. |