Các
cuộc khủng hoảng lớn lao có các hậu
quả trầm trọng, thường không tiên đoán
được. Cuộc Đại Khủng hoảng
trong thập niên 1930 đă thúc đẩy trào lưu cô
lập, tinh thần dân tộc, chủ nghĩa phát xít và
Đệ nhị Thế chiến, nhưng cũng
dẫn đến biện pháp hồi phục kinh tế
New Deal, sự trỗi dậy của Hoa Kỳ như
một siêu cường toàn cầu, và cuối cùng là
tiến tŕnh xoá bỏ thực dân.
Các cuộc tấn công trong ngày 11 tháng 9 đă tạo
ra cho Mỹ hai sự can thiệp thất bại, sự
trỗi dậy của Iran và các h́nh thức mới
của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đă
tạo ra một sự đột biến trong trào lưu
dân tuư chống các định chế chính trị lâu
đời để thay thế cho các nhà lănh đạo
trên toàn cầu. Các nhà sử học trong tương
lai sẽ theo dơi và so sánh những ảnh hưởng
lan rộng đến cơn đại dịch virus
corona hiện nay; thách thức cho họ là h́nh dung ra trước
được các ảnh hưởng.
Chuyện đă rơ ràng trong việc ứng phó với cơn
khủng hoảng là, tại sao có một số quốc
gia đă thành công hơn các quốc gia khác, và có
mọi lư do để nghĩ rằng những xu hướng
đó sẽ tiếp tục. Vấn đề không
phải là h́nh thái của chế độ. Một
số nền dân chủ đă thực hiện tốt
đẹp, nhưng một số khác th́ không, và điều
tương tự cũng đúng với các chế
độ chuyên chế.
Các yếu tố tạo cho các phản ứng đối
với đại dịch thành công là năng lực nhà
nước, niềm tin xă hội và tinh thần lănh
đạo. Các quốc gia có cả ba yếu tố này,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, một chính
phủ mà dân tin tưởng và lắng nghe, và các nhà lănh
đạo có tài, đă thực hiện một cách
rất ấn tượng, hạn chế thiệt
hại mà họ phải chịu. Khi các chức năng
quốc gia bị rối loạn, các xă hội bị phân
hoá hoặc lănh đạo kém cỏi, tất cả
đă làm tệ hại cho đất nước, gây
cho dân chúng và nền kinh tế không được
bảo vệ và dễ bị tổn thương.
Càng t́m hiểu về COVID-19, căn bệnh do virus corona
mới gây ra, dường như càng thấy là cuộc
khủng hoảng sẽ c̣n được kéo dài, nó
được tính thời gian bằng nhiều năm hơn
là theo quư. Virus dường như ít gây chết cho người
hơn đáng lo sợ, nhưng rất dễ lây và thường
lây không do triệu chứng. Ebola gây tử thương
cao, nhưng khó nhiễm; nạn nhân chết nhanh chóng,
trước khi có thể lây cho người khác. COVID-19
là trường hợp ngược lại, có nghĩa là
mọi người có xu hướng không quan tâm nghiêm
chỉnh để ngăn chặn, nên nó sẽ xảy
ra và c̣n tiếp tục lan rộng trên toàn cầu, gây
ra một số lượng lớn về tử vong.
Sẽ không có lúc nào mà các quốc gia có thể tuyên
bố chiến thắng căn bệnh dịch này; thay vào
đó, các nền kinh tế sẽ mở ra một cách
tuần tự và ḍ dẫm tạm thời, các đợt
nhiễm tiếp theo làm cho tiến độ bị
chậm lại. Hy vọng cho sự phục hồi theo h́nh
chữ V có vẻ rất lạc quan. Nhiều khả năng
cho thấy, nó sẽ theo h́nh chữ L có đuôi dài cong
lên hoặc một loạt theo chữ W. Trong tương
lai gần, nền kinh tế thế giới sẽ không
hồi phục tương tự như t́nh trạng trước
COVID.
Về mặt kinh tế, một cuộc khủng
hoảng kéo dài sẽ đồng nghĩa với
nhiều thất bại trong kinh doanh và tàn phá trong công
nghiệp như các thương xá, chuỗi bán lẻ và
du lịch. Các mức độ tập trung thị trường
trong nền kinh tế Hoa Kỳ đă trỗi dậy
đều đặn trong nhiều thập niên và đại
dịch sẽ đẩy xu hướng tiếp tục
xa hơn. Chỉ những đại doanh nghiệp
thừa tiền lắm bạc mới có thể vượt
qua cơn giông băo, những đại doanh nghiệp
với những công nghệ khổng lổ thắng
được tất cả, các tương tác
bằng kỹ thuật số trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết.
Các hậu quả chính trị có thể c̣n quan
trọng hơn. Dân chúng có thể được kêu
gọi cho các hành động anh hùng hy sinh tập
thể trong một thời gian ngắn, nhưng đó không
thể trong lâu dài. Một dịch bệnh kéo dài
kết hợp với t́nh trạng mất việc
trầm trọng, suy thoái triền miên và gánh nặng
nợ nần chưa từng thấy, sẽ tạo ra
những căng thẳng không thể tránh được,
nó biến thành một phản ứng chính trị, nhưng
chống lại ai vẫn là chuyện chưa rơ ràng.
Sự phân phối quyền lực trong toàn cầu
sẽ tiếp tục di chuyển về phía đông, v́
khu vực Đông Á đă thành công hơn trong việc
ứng phó trước t́nh h́nh, nếu so với châu Âu
hoặc Hoa Kỳ. Mặc dù đại dịch bắt
nguồn từ Trung Quốc, Bắc Kinh ban đầu che
đậy và cho phép nó lan rộng, Trung Quốc sẽ hưởng
lợi từ cuộc khủng hoảng, ít nhất là
về mặt tương đối.
Ban đầu, khi đại dịch xảy ra, các chính
phủ khác thể hiện một cách kém cỏi và
cố gắng che đậy quá rơ ràng hơn và có
những hậu quả thậm chí c̣n nguy hiểm hơn
đối với dân của nước họ. It
nhất Bắc Kinh đă có thể tái kiểm soát t́nh
h́nh và đang chuyển sang thử thách tiếp theo,
đưa nền kinh tế hồi phục với
tốc độ một cách nhanh chóng và bền
vững.
Ngược lại, Hoa Kỳ phản ứng quá
vụng về và thấy uy tín giảm sút nghiêm
trọng. Đất nước này có năng lực
tiềm năng rộng lớn và đă tạo ra
một thành tích đầy ấn tượng trong các
cuộc khủng hoảng do bịnh dịch trước
đây, nhưng xă hội phân hoá cao độ hiện
nay và nhà lănh đạo bất tài đă ngăn
chặn nhà nước hoạt động hữu
hiệu. Tổng thống đă kích động sự
chia rẽ thay v́ thúc đẩy đoàn kết, chính
trị hóa việc phân phối phẩm vật cứu
trợ, đẩy trách nhiệm cho các thống đốc
trong việc ra các quyết định quan trọng, trong
khi khuyến khích các cuộc biểu t́nh chống
lại họ để bảo vệ sức khỏe
cộng đồng và tấn công các định
chế quốc tế thay v́ khích lệ cho họ.
Thế giới cũng có thể xem truyền h́nh, và
đứng trước sự kinh ngạc khi thấy
Trung Quốc nhanh chóng tạo ra một sự so sánh rơ ràng.
Trong những năm sắp tới, đại dịch có
thể dẫn đến sự suy sụp tương
đối của Hoa Kỳ, xói ṃn liên tục của
trật tự quốc tế tự do và hồi sinh
của chủ nghĩa phát xít trên toàn cầu. Nó cũng
có thể làm cho nền dân chủ tự do tái sinh,
một hệ thống đă làm cho giới hoài nghi
lầm lạc trong nhiều lúc, nó cho thấy sức
mạnh đáng kể trong khả năng phục
hồi và đổi mới. Các yếu tố của
cả hai viễn tượng này sẽ xuất hiện
ở những nơi khác nhau. Thật không may, trừ
khi các xu hướng hiện tại thay đổi
một cách đáng kể, dự báo chung là ảm đạm.
Chủ nghĩa
phát xít trỗi dậy?
H́nh dung ra các kết quả bi quan là chuyện dễ.
Tinh thần dân tộc, chủ trương cô lập, xu
thế bài ngoại, và các cuộc tấn công vào
trật tự thế giới tự do đă gia tăng
trong nhiều năm qua và do đại dịch chiều
hướng sẽ tăng nhanh. Các chính phủ ở
Hungary và Philippines đă sử dụng cuộc khủng
hoảng để tự ủy quyền cho ḿnh trong t́nh
trạng khẩn cấp, khiến họ xa rời hơn
nền dân chủ. Nhiều quốc gia khác, bao gồm
Trung Quốc, El Salvador và Uganda, đă thực hiện các
biện pháp tương tự. Các rào cản đối
với di chuyển của dân chúng đă xuất
hiện ở khắp nơi, bao gồm cả ngay trong
trung tâm của châu Âu; thay v́ hợp tác xây dựng v́
lợi ích chung, các quốc gia đă hướng
nội, tranh căi nhau và biến các đối thủ
trở thành các vật tế thần chính trị cho
những thất bại của chính họ.
Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc
sẽ làm gia tăng khả năng xung đột
quốc tế. Các nhà lănh đạo có thể coi
những công cuộc đấu tranh với người
nước ngoài là những phân tán hữu ích cho các
vấn đề nội chính, hoặc họ có thể
bị thu phục do sự yếu đuối hoặc lo
âu của đối thủ, và sử dụng đại
dịch để gây bất ổn cho các mục tiêu
ưu tiên hoặc tạo ra tại chỗ các sự
kiện mới. Tuy nhiên, đứng trước t́nh
trạng vũ khí hạt nhân tiếp tục ổn
định và những thách thức chung của tất
cả các nước lớn phải đối mặt,
việc hỗn loạn quốc tế dường như
ít xảy ra hơn so với bất ổn trong nước.
Các nước nghèo với các thành phố đông dân
và hệ thống y tế công cộng yếu kém sẽ
bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Không
chỉ biện pháp cách ly xă hội mà ngay cả
việc vệ sinh đơn giản như rửa tay cũng
vô cùng khó khăn ở những quốc gia mà nhiều
người dân thường không có nước
sạch. Các chính phủ thường làm cho vấn
đề tệ hại hơn là cải thiện
bằng cách phác hoạ, kích động căng
thẳng trong cộng đồng và làm suy yếu đoàn
kết xă hội, hoặc do đơn giản là họ
không có khả năng.
Ví dụ, Ấn Độ có khả năng bị
tổn thương đă gia tăng khi tuyên bố
biện pháp đột ngột ngừng hoạt động
trên toàn quốc mà không nghĩ đến hậu
quả đối với hàng chục triệu dân lao
động nhập cư, những người tập
trung ở thành phố lớn. Nhiều người
đă về nhà ở nông thôn, gây truyền bệnh trên
khắp cả nước; một khi chính phủ thay
đổi quan điểm và bắt đầu hạn
chế việc cho dân di chuyển, một số lượng
lớn dân thấy ḿnh bị mắc kẹt trong các thành
phố, không có công việc, không nơi lưu trú
hoặc chăm sóc sức khoẻ.
Biến đổi khí hậu gây ra sự chuyển
dịch, nó đă là một cuộc khủng hoảng
đang sôi sục chậm chạp ở các nước
đang phát triển. Đại dịch sẽ đẩy
mạnh các tác động của nó, đưa phần
đông dân số ở các nước càng tiến
gần đến bờ vực sống c̣n. Cuộc
khủng hoảng đă xoá tan hy vọng của hàng trăm
triệu người ở các nước nghèo,
những người được hưởng lợi
từ hai thập niên tăng trưởng kinh tế
bền vững.
Sự phẫn nộ phổ biến sẽ tăng lên, và
cuối cùng những kỳ vọng đang dâng cao
của dân chúng năng động là một công
thức cổ điển cho cuộc cách mạng.
Những người tuyệt vọng sẽ t́m cách di cư,
các nhà lănh đạo mị dân sẽ khai thác t́nh h́nh
để nắm quyền, các chính trị gia tham ô
sẽ nhân cơ hội thu tóm những ǵ họ có
thể, và nhiều chính phủ sẽ trấn áp
hoặc sụp đổ. Trong khi đó, một làn sóng
di cư mới từ miền Nam bán cầu sang miền
Bắc, họ sẽ ít nhận được ḷng
thiện cảm và nhiều sự kháng cự hơn, v́
người di cư có thể bị cáo buộc là mang
bệnh tật và hỗn loạn, một chuyện đáng
tin.
Cuối cùng, sự xuất hiện của cái gọi là
thiên nga đen, theo định nghĩa là không thể
đoán trước, nhưng việc biến mất
của chúng ngày càng có xác suất cao hơn. Các đại
dịch trong quá khứ đă thúc đẩy các
viễn tượng tận thế, suy tôn theo giáo phái và
các tôn giáo mới phát triển xung quanh những lo
lắng tột độ do khó khăn kéo dài gây ra. Trên
thực tế, chủ nghĩa phát xít có thể
được xem là một sùng bái giáo phái như
vậy, nó nổi lên từ bạo lực và xáo
trộn do di chuyển, do Đệ nhất Thế
chiến và hậu quả của nó gây ra. Các thuyết
âm mưu phát triển ở những nơi như Trung
Đông, nơi có những người dân thường
bị mất quyền lực và cảm thấy họ
thiếu có tổ chức uỷ nhiệm. Ngày nay, t́nh
trạng này đă lan rộng khắp các nước giàu,
một phần do môi trường truyền thông bị
rạn nứt v́ Internet và phương tiện
truyền thông xă hội gây ra, và sự đau khổ kéo
dài đem lại cơ hội cho các giới dân túy khai
thác.
Nền dân
chủ mềm dẻo?
Tuy nhiên, giống
như cuộc Đại Khủng hoảng kinh tế không
chỉ tạo ra chủ nghĩa phát xít mà c̣n tái sinh
nền dân chủ tự do, do đó, nạn đại
dịch cũng có thể tạo ra một số kết
quả chính trị tích cực. Nó thường gây ra
một cú sốc ngoại tại kinh hoàng như
vậy, để phá vỡ các hệ thống chính
trị xơ cứng ra khỏi sự bế tắc và
tạo điều kiện cho các cải cách cơ
cấu quá hạn, và mô h́nh đó có thể sẽ
diễn ra một lần nữa, ít nhất là ở
một số nơi.
Các thực tế áp dụng trong việc ứng phó
với đại dịch hỗ trợ cho giới chuyên
gia thi thố, giới mị dân và bất tài dễ dàng
bị phơi bày. Cuối cùng, t́nh trạng này sẽ
tạo ra một hiệu ứng đăi lọc có
lợi, ân thưởng cho các chính trị gia và chính
phủ làm tốt và trừng phạt những người
làm kém.
Trong những năm gần đây, Jair Bolsonaro của
Brazil, người đă liên tục làm hỏng các
định chế dân chủ của đất nước,
đă cố gắng vượt qua cuộc khủng
hoảng và hiện đang loay hoay và chế ngự
thảm họa về y tế. Ban đầu, Vladimir Putin
của Nga cố xem thường tầm quan trọng
của đại dịch, sau đó tuyên bố Nga đă
kiểm soát được t́nh h́nh và một lần
nữa, phải thay đổi giọng điệu khi
COVID-19 lan tràn khắp nước. Tính hợp pháp
của Putin vốn dĩ đă bị suy yếu từ
trước cuộc khủng hoảng và nay tiến tŕnh
đó có thể gia tăng.
Đại dịch đă soi rơ các định chế
đang hoạt động ở khắp mọi nơi,
hé lộ những bất cập và điểm yếu.
Khoảng cách biệt giữa giàu và nghèo, cả trong dân
chúng và đất nước, đă được
đào sâu thêm bởi cuộc khủng hoảng và
sẽ c̣n tăng hơn nữa trong thời kỳ kinh
tế tŕ trệ kéo dài. Nhưng song song với các
vấn đề, cuộc khủng hoảng cũng cho
thấy khả năng mang lại giải pháp của chính
phủ, dựa trên các nguồn lực chung trong tiến
tŕnh này. Một cảm giác dai dẳng là “chúng ta cùng
chịu cảnh cô độc chung với nhau”, có
thể thúc đẩy đoàn kết xă hội và phát
triển biện pháp bảo vệ xă hội hào phóng hơn,
giống như những đau khổ chung cho cả nước
của Đệ nhất Thế chiến và suy thoái
đă kích thích cho tăng trưởng của các
quốc gia phúc lợi trong những năm của
thập niên 1920 và 1930.
Điều này có thể làm cho các h́nh thức cực
đoan của chủ nghĩa tân tự do, ư thức
hệ cổ suư cho tự do thị trường do các
nhà kinh tế của Đại học Chicago như Gary
Becker, Milton Friedman và George Stigler đi tiên phong, ngưng
hoạt động. Trong những năm của thập
niên 1980, trường phái Chicago đă biện minh
về mặt trí thức cho các chính sách của
Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan và Thủ tướng
Anh Margaret Thatcher, họ là những người coi chính
phủ mạnh và bao biện là một trở ngại
cho tăng trưởng kinh tế và tiến bộ
của con người. Vào thời điểm đó, có
những lư do chính đáng để cắt giảm
nhiều h́nh thức thuộc quyền sở hữu và
quy định của chính phủ. Nhưng các cuộc
tranh luận đă cô động lại thành một tôn
giáo theo tự do tuyệt đối, đưa sự thù
địch với hành động của nhà nước
trong một thế hệ trí thức bảo thủ,
đặc biệt là ở Hoa Kỳ.
Do tầm quan trọng của hành động của nhà
nước mạnh mẽ nhằm làm chậm lại
trận đại dịch, sẽ rất khó để
lập luận, như Reagan đă nói trong bài diễn văn
nhậm chức đầu tiên, rằng “chính quyền
không phải là giải pháp cho các vấn đề
của chúng ta, mà chính phủ là vấn đề.“
Bất kỳ ai cũng không thể đưa ra một
trường hợp chính đáng khi cho rằng khu
vực tư nhân và hoạt động từ thiện
có thể thay thế cho nhà nước trong trường
hợp đất nước lâm nguy. Vào tháng Tư,
Jack Dorsey, Giám đốc điều hành của Twitter,
tuyên bố rằng sẽ đóng góp 1 tỷ đô la
cứu trợ cho COVID-19, một hành động từ
thiện phi thường. Cùng trong tháng đó, Quốc
hội Hoa Kỳ đă chuẩn chi 2,3 ngh́n tỷ đô
la để duy tŕ các doanh nghiệp và cá nhân bị
tổn thương bởi cơn đại dịch.
Chủ nghĩa chống nhà nước có thể kéo dài
trong số những người biểu t́nh chống
biện pháp đóng cửa, nhưng các cuộc thăm
ḍ dư luận cho thấy phần lớn người
Mỹ tin tưởng lời khuyên của các chuyên gia y
tế của chính phủ trong việc xử lư
khủng hoảng. Điều này có thể gia tăng
hỗ trợ cho các can thiệp của chính phủ
để giải quyết các vấn đề xă
hội quan trọng khác.
Cuối cùng, cuộc khủng hoảng có thể thúc
đẩy hợp tác quốc tế đổi mới.
Trong khi các nhà lănh đạo quốc gia đổ
lỗi cho nhau, các nhà khoa học và các quan chức y
tế công cộng trên khắp thế giới đang tăng
cường mạng lưới và kết nối.
Nếu sự đổ vỡ của hợp tác
quốc tế dẫn đến thảm họa và
bị đánh giá là thất bại, thời đại
sau đó có thể thấy một cam kết đổi
mới để làm việc trong chiều hướng
đa phương nhằm thúc đẩy cho các lợi
ích chung.
Đừng mang
nhiều hy vọng
Đại
dịch đă là một cách trắc nghiệm về t́nh
trạng căng thẳng chính trị trong toàn cầu. Các
quốc gia có chính phủ hợp pháp và năng lực
sẽ trải qua trận đại dịch một cách
tương đối êm thắm và có thể thực
hiện các cải cách khiến đất nước
trở nên mạnh mẽ và kiên cường hơn, do
đó, tạo điều kiện thuận lợi cho thành
qủa vượt trội trong tương lai. Các
quốc gia có năng lực yếu kém hoặc khả năng
lănh đạo kém sẽ gặp rắc rối, rơi vào
t́nh trạng tŕ trệ, nếu không nói là gặp
sự bần cùng và bất ổn. Vấn đề là
số lượng của nhóm thứ hai nhiều hơn
nhóm thứ nhất.
Thật không may, việc trắc nghiệm t́nh trạng
căng thẳng đă rất khó khăn đến
độ mà ít có nước nào có khả năng vượt
qua. Để ứng phó thành công trong các giai đoạn
ban đầu của cuộc khủng hoảng, các
quốc gia không chỉ cần có năng lực và
nguồn lực đầy đủ mà c̣n rất
nhiều sự đồng thuận xă hội và các nhà
lănh đạo có khả năng, ho đă mang lại
niềm tin. Hàn Quốc đáp ứng được nhu
cầu này, khi chính quyền ủy thác việc ứng
phó cơn dịch bệnh cho một bộ máy y tế
chuyên nghiệp và nước Đức của Angela
Merkel cũng như vậy. Các chính phủ đă thường
gặp thất bại theo cách này hay cách khác là
chuyện phổ biến. V́ phần c̣n lại của
cuộc khủng hoảng cũng sẽ khó điều hành,
những xu hướng trong cả nước có thể
sẽ tiếp tục, khiến cho sự lạc quan lan
rộng trở nên khó khăn.
Một lư do khác cho sự bi quan là các kịch bản
tốt đẹp đ̣i hỏi điều kiện
phải có là thảo luận t́nh h́nh trong tiến tŕnh
công khai, hợp lư và học tập trong môi trường
xă hội. Tuy nhiên, ngày nay, mối liên kết giữa
giới kỹ thuật chuyên môn và hoạch định
chính sách công yếu hơn so với trước đây,
khi giới tinh hoa nắm quyền nhiều hơn.
Cuộc cách mạng kỹ thuật số thúc đẩy
việc dân chủ hóa quyền lực, nó đă san
phẳng các hệ thống nhận thức cùng với
các phân cấp khác. Hiện nay, việc quyết định
trong chính trị được thúc đẩy bởi các
cuộc tranh luận nhảm nhí , nó thường
được biến thanh loại vũ khí. Hầu như
đó không phải là một môi trường lư tưởng
để tự kiểm tra chung xây dựng và một vài
phạm vi chính trị có thể tồn tại lâu dài hơn
bất hợp lư so với khả năng có thể
giải quyết.
Yếu tố biến động lớn lao nhất
lả Hoa Kỳ. Đó là sự bất hạnh duy
nhất của đất nước khi có nhà lănh
đạo bất tài và gây chia rẽ nhất trong
lịch sử hiện đại ở trong vị trí lănh
đạo khi cuộc khủng hoảng xảy ra, và
đuờng lối cai trị của ông không thay đổi
dù dưới áp lực. Đă trải qua một
nhiệm kỳ gây chiến với nhà nước, ông
không thể triển khai nó một cách hiệu quả
khi t́nh h́nh yêu cầu. Khi đánh giá vận may chính
trị của ông được phục vụ tốt
nhất bằng sự đối đầu và thống
trị thay v́ đoàn kết dân tộc, ông đă
sử dụng khủng hoảng để chiến đấu
và gia tăng phân hoá xă hội. Thành quả kém cỏi
của Mỹ trong cơn đại dịch có một
số nguyên nhân, nhưng đáng kể nhất là
một nhà lănh đạo quốc gia đă thất
bại trong việc lănh đạo.
Nếu tổng thống thắng cử trong nhiệm
kỳ thứ hai vào tháng 11, cơ hội hồi sinh dân
chủ hoặc nền trật tự quốc tế
tự do sẽ suy giảm. Tuy nhiên, cho dù kết quả
bầu cử là ǵ đi nửa, t́nh trạng phân hoá sâu
đậm của Hoa Kỳ có vẻ như vẫn c̣n
tồn tại. Tổ chức một cuộc bầu
cử trong cơn đại dịch sẽ rất khó khăn,
và sẽ có những động lực khích lệ cho
những người thua cuộc bất măn thách
thức tính hợp pháp của nó. Ngay cả khi đảng
Dân chủ chiếm Toà Bạch Ốc và cả lưỡng
viện Quốc hội, họ sẽ thừa kế
một quốc gia hầu như bị phá nát. Nhu
cầu hành động sẽ gặp phải là núi
nợ nần và kháng cự quyết liệt từ phe
đối lập thô bạo. Các định chế
quốc gia và quốc tế sẽ yếu đi và chao
đảo sau nhiều năm bị lạm dụng, và
sẽ mất nhiều năm để xây dựng
lại chúng nếu điều đó vẫn có thể
xảy ra.
Với giai đoạn bi thảm và cấp bách nhất
của cuộc khủng hoảng vừa qua, thế
giới đang chuyển sang một thời bi quan dài.
Cuối cùng, giai đoạn sẽ kết thúc, một vài
nơi có thể sẽ thoát nhanh hơn các nơi khác. T́nh
trạng co cụm trong toàn cầu đầy bạo
lực dường như là không thể xảy ra, và dân
chủ, chủ nghĩa tư bản và Hoa Kỳ đều
đă chứng minh được khả năng
chuyển hoá và thích ứng trước đây. Nhưng
họ sẽ cần phải làm cái ǵ đó cực
kỳ thông minh và đột biến để giải
quyết vấn đề.
***
Francis Fukuyama là chuyên gia nghiên cứu cao cấp
của Olivier Nomellini thuộc Freeman Spogli Institute for
International Studies tại Đại học Stanford. Ông lả tác giả của: Identity: The
Demand for Dignity and the Politics of Resentment.
Nguyên
tác: The Pandemic and Political Order
https://www.foreignaffairs.com/articles/world/2020-06-09/pandemic-and-political-order
|