Sự
kết thúc chiến tranh Việt Nam (Phần 1) Tác
giả: Henry
Kissinger Đỗ Kim Thêm, dịch |
Đại
tá Bùi Tín của QĐNDVN chào tiễn biệt toán lính
Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam vào ngày 29
tháng 3 năm 1973. Nguồn ảnh: Picture alliance / AP /
Charles Harrity Lời người
dịch: Nguyên
tác của bản dịch là “The Vietnam War and its
Conclusions”, một trích đoạn trong tác phẩm Leadership
– Six Studies in World Strategy của Henry
Kissinger do Nhà xuất bản Penguiun Press, New York ấn hành
ngày 5-7-2022, (Trang 149-163). Trong bài viết,
Kissinger nêu lên chiến lược nguyên thuỷ khi
đàm phán của Richard Nixon đề ra là binh sĩ
Mỹ và Bắc Việt phải cùng lúc rút ra khỏi
miền Nam. Nhưng khi Kissinger dự thảo cho Hoà ước
Paris, có sự thay đổi điều kiện là
Lê Đức Thọ chỉ chấp thuận cho việc
binh sĩ Mỹ đơn phương ra đi trong khi
binh sĩ Bắc Việt được tiếp tục
đồn trú tại miền Nam. Kissinger không giải thích
tại sao phải chấp nhận điều kiện này. Trong cuốn sách Kissinger’s
Betrayal: How America Lost the Vietnam War, do Nhà
xuất bản Real Clear Publishing ấn hành vào tháng 4 năm
2023, Stephen B. Young đă dẫn chứng nhiều
nguồn tài liệu và thư tín của Ellsworth Bunker,
Henry Kissinger, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ,
Anatoly Dobrynin, Claude Dulong-Sainteny cũng như trực
tiếp phỏng vấn Bunker và Nixon. Stephen B. Young
kết luận, Kissinger đă qua mặt cả Nixon khi
tự ư đề ra điều kiện cho binh sĩ
Bắc Việt ở lại. Lá thư của Kissinger
gửi cho Bunker vào ngày 25-5-1971 và biên bản cuộc
họp ngày 9-1-1971 tại Toà Bạch Ốc với Đại
sứ Dobrynin là hai bằng chứng cụ thể. Sau khi tiếp xúc
với Kisinger, Đại sứ Dobrynin xác nhận
với Moscow và Hà Nội là: “…Nếu Hoa Kỳ cam
kết rút toàn bộ lực lượng trong một
thời hạn nhất định và có thể không yêu
cầu lực lượng QĐNDVN rút đồng
thời ra khỏi miền Nam … Bắc Việt nên cam
kết tôn trọng lệnh ngừng bắn trong thời
gian Hoa Kỳ rút quân …” Richard Nixon nói không
biết Kissinger thật sự làm ǵ vào năm 1971. Cho đến nay,
Kissinger chỉ lăp lại các biện minh quen
thuộc: Hậu quả của Watergate làm cho Nixon ra
đi, Quốc hội Mỹ cắt giảm viện
trợ làm cho miền Nam không thể tiếp tục
chiến đấu, không thú nhận bị Lê Đức
Thọ lừa đảo và hay có bất cứ một
trách nhiệm nào về chính trị hay đạo đức
cá nhân. Kissinger vẫn chưa trả lời các cáo
buộc của Stephen B. Young. *** Khi Nixon tuyên thệ
nhậm chức vào tháng Giêng năm 1969, Hoa Kỳ đă
có gần hai thập niên can dự tại Việt Nam,
30.000 binh sĩ đă tử thương trên chiến trường
và nhiều cuộc biểu t́nh phản chiến, đôi
khi bằng bạo lực. Trong lần gặp gỡ Nixon
đầu tiên sau khi thắng cử tại khách sạn
Pierre, ông nhấn mạnh, kiên quyết kết thúc
cuộc chiến Việt Nam trong nhiệm kỳ đầu
tiên. Ông hứa với các gia đ́nh tử sĩ
về một sự kết thúc phù hợp đối
với vinh dự của Mỹ. Ông muốn đạt
được việc này bằng chính sách ngoại
giao thông qua liên kết với Liên Xô. Ư tưởng
về việc mở cửa đối với Trung
Quốc cũng có thể sẽ đóng một vai tṛ,
nhưng ông sẽ không bán tháo (chủ trương).
Một nền an ninh của các dân tộc tự do, hoà
b́nh thế giới và tiến bộ tuỳ thuộc vào
việc tái lập và đổi mới tinh thần lănh
đạo của Hoa Kỳ. Các nỗ lực về chính
trị và quân sự cũng phải được duy
tŕ song song. Ngay trong lúc đầu
của nhiệm kỳ tổng thống Harry Truman, Hoa
Kỳ đă tham gia việc bảo vệ miền Nam
để chống lại sự nổi dậy của
Cộng sản bằng cách gởi các cố vấn quân
sự. Eisenhower gia tăng viện trợ Mỹ và nâng
số lượng các cố vấn quân sự từ 35
lên đến gần 700 vào năm 1956, đặt
họ trực thuộc Toà Đại sứ Mỹ
tại Sài G̣n. Vào lúc cuối nhiệm kỳ, Eisenhower
kết luận là, qua việc mở ra các đường
tiếp vận mới, các đơn vị Bắc
Việt thâm nhập được Lào và Kampuchea, hai nước
yếu và trung lập nằm cạnh biên giới Nam
Việt Nam, làm cho t́nh h́nh an ninh tại Sài G̣n ngày càng
bị đe doạ và do đó phải kháng cự. Các đường
tiếp vận, một hệ thống mà sau này nổi
danh là đường ṃn Hồ Chí Minh dài 1000 cây
số chạy qua một khu vực rừng hoang dă
dọc theo biên giới phía nam của miền Nam
Việt Nam; do đó, rất khó để phát hiện,
tấn công hay phong toả. Đường ṃn Hồ Chí
Minh trở thành một điểm quan trọng của các
nhà chiến lược Bắc Việt để họ
làm suy yếu và cuối cùng làm sụp đổ chính
phủ miền Nam. Trong lúc chuyển
giao quyền tổng thống vào năm 1960, Eisenhower khuyên
John F. Kennedy, người kế nhiệm, là nên điều
động quân Mỹ đến khu vực, và trong trường
hợp cần thiết, chống lại các cuộc xâm
nhập trong các nước láng giềng trung lập.
Kennedy không thi hành ngay các lời khuyên này của
Eisenhower, nhưng thay vào đó, cố thử t́m
kiếm một giải pháp chính trị thông qua
ngoại giao với Hà Nội. Kết quả là một
Hiệp ước Quốc tế về Trung lập Lào
được kư kết vào năm 1962. Về sau, khi Hà
Nội vi phạm t́nh trạng trung lập của Lào qua
việc thâm nhập nghiêm trọng, Kennedy phản
ứng bằng cách gởi 15.000 binh sĩ Mỹ đến
để huấn luyện và cố vấn cho các
đơn vị chiến đấu của Nam Việt
Nam. V́ chính quyền Kennedy nhận ra là Ngô Đ́nh
Diệm, nhà lănh đạo độc tài Nam Việt
Nam, thiếu sự ủng hộ rộng răi của dân
chúng và ư chí chính trị để chiến thắng, nên
thúc giục quân đội lật đổ. Cuộc
đảo chính đă đưa đến việc sát
hại ông Diệm vào ngày 2 tháng 11 năm 1963 và làm suy
yếu chính quyền Nam Việt Nam ngay trong ḷng cuộc
nội chiến, mà theo định nghĩa, một chính
quyền bị bao vây là một cái giá chủ yếu.
Bắc Việt dùng cơ hội này để thâm
nhập các lực lượng chiến đấu chính
quy nhằm tăng cường cho các lực lượng
quân kháng chiến. Sau vụ sát
hại Kennedy vào ngày 22 tháng 11 năm 1963, Lyndon B. Johnson
đă theo lời khuyên của toán công tác về an ninh
quốc gia mà gia tăng các nỗ lực quân sự
tại Việt Nam. Ông tiếp nhận nhóm này có từ
thời Kennedy, trừ một người trong nhóm
chệch hướng là George Ball, Thứ trưởng
Bộ Ngoại giao (1). Tuy nhiên, không bao lâu sau, Johnson
nhận ra rằng, các hỗn loạn chính trị trong
khu vực phức tạp hơn, v́ các rối rắm
qua việc triển khai một chiến lược quân
sự. Đối với
Mỹ, quy mô tuyệt đối của việc gởi
quân Mỹ đến một khu vực xa xôi tạo ra
chuyện tối cần thiết là phải chấm
dứt chiến cuộc một cách nhanh chóng. Nhưng Hà
Nội kéo dài xung đột để làm kiệt
quệ tinh thần người Mỹ. Trong một
cuộc đọ sức giữa một đạo quân
được cơ giới hoá và các đạo quân
kháng chiến đặt cơ sở hoạt động
trong rừng th́ các bộ đội này chiếm ưu
thế, v́ họ sẽ thắng cho đến lúc nào mà
họ không thua. Tháng Giêng năm
1969, Bắc Việt kiểm soát 1/3 lănh thổ phía Tây
của Lào và một phần của Kampuchea, v́ nó
lọt ra ngoài phạm vi của các lực lượng
Mỹ. Họ sử dụng các nơi này như là
những căn cứ, một phần lớn là để
gởi hàng tiếp vận tới miền Nam và đe
doạ vùng cực nam của miền Nam, kể cả Sài
G̣n. Do đó, Bắc Việt có vị thế tiếp
vận để thử thách tinh thần kiên tŕ
của người Mỹ ở trong nước. Như
Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Bắc
Việt, giải thích cho Harrison Salisbury, kư giả
của tờ New York Times, là họ theo đuổi
một chiến lược dựa vào một niềm
tin, người Bắc sẽ chiến đấu cho
Việt Nam kiên cường hơn người Mỹ,
điểm chủ yếu là nhiều người
Việt sẵn sàng chết cho Việt Nam nhiều hơn
người Mỹ. Bế tắc trên
chiến trường và số lượng thương
vong tăng cao, tạo ra phân hoá xă hội tại
hậu phương Mỹ. Trong thời chính quyền
Johnson, những cuộc thảo luận trong các khuôn viên
đại học về các mục tiêu và khả năng
thực hiện của cuộc chiến đă bắt
đầu. Khi Nixon tuyên thệ nhậm chức,
những cuộc thảo luận đă bộc phát và
trở thành những đối kháng trong mối quan
hệ về giá trị và phương pháp của
Mỹ. Cuộc chiến có chính nghĩa không? Nếu không
được biện minh, tốt hơn là nên từ
bỏ toàn bộ công cuộc chiến đấu.
Mặc dầu thoạt đầu thái độ bỏ
cuộc được coi như là cực đoan;
về sau, quan điểm này có trong phần lớn
giới trí thức của xă hội Mỹ. Chủ thuyết xem
Mỹ là ngoại lệ bị đảo lộn;
chủ thuyết duy tâm nhằm đề cao việc
hỗ trợ cho Mỹ đảm nhận trách nhiệm
quốc tế sau Thế chiến thứ hai được
đề cập trở lại khi Mỹ đối
diện với cuộc chiến Việt Nam, nhằm vào
việc bác bỏ vai tṛ lănh đạo toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng niềm tin do việc Mỹ
tham chiến tại Việt Nam đă vượt ra
khỏi vấn đề cuộc chiến và chuyển hướng
sang bản chất đích thực và nền tảng
trong các mục tiêu của Mỹ. Phong trào phản
chiến ngay trong ḷng các đại học tạo thành
các cuộc biểu t́nh của quần chúng, nó đạt
đến cao điểm làm cho Tổng thống Johnson
không thể xuất hiện trước công chúng trong các
cuộc vận động tranh cử vào năm 1968,
chỉ với ngoại lệ khi nào ông đến các căn
cứ quân sự. Tuy vậy, việc rút quân đơn
phương ra khỏi cuộc chiến không được
dân chúng ưa chuộng. Hubert Humphrey, ứng viên
Tổng thống của Đảng Dân chủ và Richard
Nixon, đối thủ của Đảng Cộng Hoà,
đều từ chối việc rút quân đơn phương.
Nhưng trong cuộc vận động tranh cử,
họ hứa hẹn là sẽ t́m ra một đường
lối kết thúc cuộc chiến qua đàm phán. Nixon không nói rơ
bằng cách nào, nhưng chỉ nói là sẽ có một
phương sách mới. Tuy nhiên, các các cơ sở
của Đảng Dân chủ phản đối các
việc rút quân mà không đề cập đến chi
tiết. Vấn đề gây cho Đảng Dân chủ
chia rẽ và ngày Đại hội đảng để
đề cử ứng viên vào tháng Tám xáo trộn là
thúc giục đ̣i hỏi việc rút quân của hai phía
(Mỹ và Bắc Việt) ra khỏi Nam Việt Nam.
Nghị sĩ Edward Ted Kennedy và các đảng viên Dân
chủ theo phe bồ câu dự trù khuôn khổ của
việc đề nghị rút quân Mỹ, nhưng
chỉ đề cập đến như là một
số lượng quân đáng kể. Từ cuộc
gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi, Nixon kiên
quyết t́m ra một lối thoát đầy vinh dự
tại Việt Nam, đó là tất yếu cho vai tṛ lănh
đạo thế giới của Mỹ. Trong thời
gian chuyển quyền sau bầu cử, chúng tôi định
nghĩa “đầy vinh dự” là những người
Đông Dương đă chiến đấu cho tự
do của họ có được một cơ hội
để tự quyết định cho vận mệnh
của ḿnh, trong khi phong trào phản chiến tại
Mỹ chỉ đ̣i hỏi một phía rút quân, điều
mà Nixon cực lực phản đối.
Theo quan điểm
của Nixon, quyền lợi quốc gia đ̣i hỏi
phải có một đường lối trung dung
giữa chiến thắng và rút quân. Theo Nixon, rút quân không
điều kiện đưa đến sự thoái
vị về tinh thần và địa chính trị, nói
khác đi, một sự thiệt hại nặng nề
về ư nghĩa của Hoa Kỳ đối với
trật tự quốc tế. Khi Nixon nhậm
chức, ông khám phá ra các lư do thiết thực để
từ chối việc rút quân đơn phương.
Vị Tham mưu trưởng Liên quân ước lượng
rằng, để chuẩn bị cho việc rút nửa
triệu quân và các thiết bị phải cần
thời gian 16 tháng. Ngay cả khi cho rằng, việc
ước lượng của vị Tư lệnh này
bị ảnh hưởng do ác cảm, kinh nghiệm
đầy hỗn loạn trong việc rút 5.000 lính
Mỹ ra khỏi Afghanistan trong năm 2021 cho thấy t́nh
trạng vô trật tự tiềm ẩn qua việc rút
quân đơn phương trong điều kiện
chiến tranh. Tại Việt Nam, có khoảng hơn
150.000 binh sĩ Mỹ và ít nhất là 800.000 binh sĩ
Bắc Việt và một số lượng tương
đương binh sĩ miền Nam, thái độ
của họ là có cảm tưởng bị phản
bội, có thể xảy ra từ sự thù nghịch
cho đến hỗn loạn. Chính v́ thế, như
đă tuyên bố trong cuộc vận động tranh
cử, Nixon quyết định đạt được
sự liên kết một giải pháp ngoại giao
với Liên Xô. Ông theo đuổi chiến lược này
ngay khi đối diện cuộc tấn công của
Bắc Việt, nó bắt đầu nội trong ba
tuần sau khi ông nhậm chức, trước khi ông
đưa ra bất cứ một hành động quân
sự quan trọng nào, việc này làm cho hơn 6.000 binh
sĩ thương vong trong sáu tháng đầu tiên trong
nhiệm kỳ tổng thống của ông. Nixon muốn t́m ra
một sự kết hợp ngoại giao bằng cách áp
lực buộc Liên Xô cắt giảm viện trợ cho
Hà Nội. Ban Tham mưu của tôi dự kiến
một kế hoạch ngoại giao để giải thích,
trong đó chúng tôi chuẩn bị tŕnh bày các tương
nhượng cho Bắc Việt, để có thể thông
qua Moscow. Song song, với bí danh “Duch Hook” (2), Ban Tham mưu
của tôi có các chọn lựa khác là việc leo thang
quân sự (chủ yếu là phong toả và ném bom). Trường
hợp Moscow từ chối các đề nghị của
chúng tôi, Nixon muốn cố thử áp đặt
bằng bạo lực quân sự (việc này đă
xảy ra, khi một phần lớn kế hoạch quân
sự được thực hiện trong ba năm sau này,
tháng 5 năm 1972, như là phản ứng trước
việc tấn công của Hà Nội trong chiến
dịch mùa hè đỏ lửa). Là nhà đàm phán
của chính quyền Johnson với Bắc Việt, Cyrus
Vance tỏ ra nhạy bén cho ư tưởng khi được
bổ nhiệm làm đặc sứ trong trường
hợp đề nghị của chúng tôi được
đồng thuận. Được Nixon
thoả thuận, tôi đưa ra một khái niệm
với Anatoli Dobrynin, Đại sứ của Liên Xô
tại Hoa kỳ, mà không nêu chi tiết. Chúng tôi không
nhận được câu trả lời nào từ phía
Moscow, nhưng trong lần gặp gỡ đầu tiên vào
tháng 8 năm 1969 với Bắc Việt, Xuân Thuỷ,
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Nội,
từ chối lời đề nghị với lập
luận là Hà Nội không bao giờ đàm phán thông qua
phe thứ ba. Trong khi nghiên
cứu về các đường lối ngoại giao,
Nixon đề ra một khái niệm chiến lược
toàn diện trước thế giới vào ngày 25 tháng
7 năm 1969. Về địa điểm của bài
diễn văn, ông chọn một nơi vắng vẻ
thuộc phía Tây Thái B́nh Dương của đảo
Guam, ông dừng lại ở đây vào buổi
chiều trong chuyến công du khắp thế giới,
ngay trước đó ông chào đón các nhà phi hành không
gian Mỹ, khi họ vừa từ mặt trăng
trở về. Qua lời tuyên
bố có vẻ đầy ấn tượng trong
cuộc họp báo này, Nixon tŕnh bày về chính sách
Đông Nam Á; thực ra, bài diễn văn này đă
được Toà Bạch Ốc chuẩn bị cẩn
trọng và tu chỉnh ngay trong chuyến bay, nhằm
nhấn mạnh đến mối bang giao của Hoa
Kỳ và các đối tác trong vùng. Nixon cảnh báo
về các nguy cơ do các chế độ Cộng
sản tại Trung Quốc, Bắc Hàn và Bắc
Việt gây ra và tiếp tục lập luận là: “Hoa Kỳ phải
tránh một chính sách mà các nước tại châu Á
trở nên quá lệ thuộc vào chúng ta, đến
độ mà chúng ta bị ràng buộc trong các cuộc
tranh chấp như cuộc tranh chấp mà chúng ta có
tại Việt Nam”. Dĩ nhiên, báo chí
tháp tùng có hỏi về các chi tiết mà Nixon đă
chuẩn bị sẵn để trả lời. Ông
đáp: “Tôi
tin rằng, thời điểm đă đến khi Hoa
Kỳ phải nhấn mạnh đến hai điểm
về mối quan hệ đối với tất cả
các nước thân hữu châu Á. Thứ nhất: Chúng
ta sẽ tuân thủ các nghĩa vụ kết ước
… nhưng thứ hai, trong những vấn đề có
liên hệ đến an ninh nội địa và bảo
vệ quốc pḥng, với ngoại trừ việc các
cường quốc có trang bị vũ khí hạt nhân
đe doạ, Hoa Kỳ sẽ khuyến khích và có
quyền kỳ vọng các quốc gia châu Á là sẽ càng
lúc càng tự lo liệu về các vấn đề
của họ và đảm nhận trách nhiệm”. Những ǵ mà
về sau nổi danh là “chủ thuyết Nixon” bao
gồm ba nguyên tắc cơ bản: 1. Hoa Kỳ sẽ
tuân thủ các nghĩa vụ kết ước. 2. Hoa Kỳ sẽ
sẵn sàng bảo vệ trong trường hợp cường
quốc nguyên tử đe doạ tự do đối
với một trong các nước đồng minh
của chúng ta hoặc một nước mà sự
sống của họ c̣n được Hoa Kỳ xem như
cần thiết cho nền an ninh của Hoa Kỳ và toàn
khu vực. 3. Trong trường
hợp có các loại tấn công khác, nghĩa là, các
cuộc tấn công bằng vũ khí quy ước
của các cường quốc không có vũ khí hạt
nhân, Hoa Kỳ sẽ yểm trợ bằng quân sự và
kinh tế, khi được họ yêu cầu. Nhưng
Hoa Kỳ cũng chờ đợi các nước
bị đe doạ trực tiếp, đảm nhận
trách nhiệm chủ yếu trong việc cung ứng nhân
lực cho việc bảo vệ. Trong khuôn khổ mà
về sau được gọi là “Việt Nam hoá
chiến tranh”, Hoa Kỳ muốn viện trợ quân
sự, huấn luyện và yểm trợ không quân theo
theo nguyên tắc thứ ba trong ba nguyên tắc kể trên,
để cho Sài G̣n có điều kiện cầm
cự cho đến khi nào đủ mạnh để
tự bảo vệ. Mục đích của chủ
thuyết Nixon là thể hiện việc người
Mỹ kiên quyết và khả năng của
miền Nam Việt Nam có thể pḥng thủ để Hà
Nội đồng thuận về một giải pháp chính
trị, nó cho phép dân chúng miền Nam tự quyết
định tương lai của ḿnh. Nixon hứa tuân
thủ các nghĩa vụ của Hoa Kỳ đối
với các đồng minh kết ước như Nam Hàn
và Thái Lan và cũng bảo vệ các nước khác
tại châu Á, khi họ bị các cường quốc
nguyên tử đe doạ, việc này ám chỉ Trung
Quốc và Liên Xô. Sự khác biệt giữa Nixon và các
bậc tiền nhiệm là ông làm ràng buộc phạm
vi các viện trợ Mỹ, các nước bị đe
doạ phải tự nhận trách nhiệm bảo
vệ. Mục tiêu chính là ông muốn trấn an các nước
mà sự sống c̣n của họ dựa vào niềm
tin về vai tṛ của Mỹ, khi các cuộc đàm phám
để chấm dứt chiến tranh Việt Nam không
đánh dấu về việc triệt thoái chiến lược
từ châu Á (3). Vào cuối
nhiệm kỳ, tổng thống Johnson đă có các
cuộc đàm phán chính thức với Bắc Việt
và được tiếp tục dưới thời
Nixon. Hàng tuần đại diện của Bắc
Việt, Mỹ, chính quyền miền Nam của Sài G̣n
và Mặt trận Giải phóng miền Nam gặp nhau
tại khách sạn Majestic, Paris. Hà Nội không bao
giờ xem các cuộc đàm phán này là một tiến
tŕnh ngoại giao, mà chỉ là một giai đoạn
tiếp tục của một chiến lược tâm lư,
để họ làm hao ṃn ư chí của Mỹ và làm
sụp đổ chính quyền “bất hợp pháp”
của Nam Việt Nam. Vào những ngày
cuối cùng của chiến dịch vận động
tranh cử năm 1969, Tổng thống Johnson công bố
với niềm hy vọng tràn trề là Bắc Việt
theo đuổi hai mục đích trong các cuộc đàm
phán này: Đối với chính phủ Nam Việt Nam
phải mất tính chính danh, để trước
hết Hà Nội hoàn toàn từ chối đàm phán
với họ và kiên tŕ là Mặt trận Giải phóng
miền Nam là phía đàm phán cho miền Nam tại bàn
hội nghị. Sau khi một
thoả hiệp được t́m ra để cả
hai phe của miền Nam được tham dự đàm
phán chính thức, Hà Nội từ chối không hề nói
đến bất cứ vấn đề nội dung nào.
Mục tiêu của Bắc Việt là kéo dài các cuộc
đàm phán cho đến khi nào Hoa Kỳ kiệt
sức hoặc do các phản đối của dân chúng
Mỹ đến độ phải quay lưng từ
bỏ Đồng minh Nam Việt Nam. Diễn đàn
đàm phán chính thức tại khách sạn Majestic mà phái
đoàn Bắc Việt do Xuân Thuỷ lănh đạo,
mang lại một kỳ tích bất thường. Trong
bốn năm được gọi là đàm phán, không
có tiến bộ nào đạt được và
kết quả chỉ nhằm tŕnh bày hàng loạt các
lời tuyên bố cho có h́nh thức với nội dung
rỗng tuếch. Vào mùa hè năm
1969, Nixon t́m hiểu rằng qua kênh đàm phán với
Moscow có thể đạt được kết quả
đầy vinh dự theo quan điểm của chúng tôi.
Trước khi thực hiện cách này để gia tăng
áp lực, ông quyết định thử lại
một lần nữa khi khởi động lại các
cuộc đàm phán. Việc này có hai phần: Tôi
phải huỷ chuyến du hành thế giới để
hội kiến với Xuân Thuỷ tại Paris vào ngày 4
tháng 8 năm 1969. Đó là cuộc mật nghị đầu
tiên mà từ đó cho đến tháng 4 năm sau,
một kênh mật đàm giữa Lê Đức Thọ
và tôi diễn ra. Pháp là quốc gia
duy nhất trong khối NATO có quan hệ ngoại giao
với Hà Nội, và cuộc gặp gỡ do Jean Sainteny,
Đại sứ Pháp tại Hà Nội, thu xếp. Đối
với tôi, phu nhân của Sainteny là một người
bạn thân thiết sau khi bà đă tham dự một khoá
học quốc tế kéo dài ba tháng trong khuôn khổ chương
tŕnh mùa hè của Đại học Harvard, do tôi
giảng dạy. Nhờ thế, cuộc mật nghị
giữa các giới chức của Nixon và Việt Nam
diễn ra trong một căn pḥng sang trọng của
Sainteny trên đường Rivoli. Khi ông giới thiệu
những người Việt cho chúng tôi, ông đặt
điều kiện là không được phép phá
vở bất cứ các đồ gia dụng nào. Một cuộc trao
đổi sau đó cho thấy trước viễn
cảnh bế tắc trong ba năm sau. Xuân Thuỷ lên
lớp giảng dạy về cuộc chiến đấu
hào hùng của người Việt cho độc
lập và ḷng kiên quyết của Hà Nội để
theo đuổi cuộc chiến cho đến cùng. Tôi
nghe các lời này lặp đi lặp lại không
biết bao nhiêu lần trong nhiều năm và kết thúc
bằng việc công bố các điều kiện tiên
quyết của Hà Nội. Đến phiên tôi, tôi
giải thích là sẵn sàng đàm phán trên cơ sở
của một tiến tŕnh chính trị mà tất
cả các phe nhóm, kể cả những người
cộng sản, có thể tham gia. Nixon chỉ thị
cho tôi nên dùng cơ hội cho các biện pháp táo
bạo. Tôi đă truyền đạt là nếu cho
đến ngày 1 tháng 11 mà chúng tôi không có được
một hồi đáp giá trị nào về các đề
nghị của chúng tôi thông qua các kênh ngoại giao
của hai phía, chúng tôi sẽ cứu xét đến các
biện pháp khác hơn là ngoại giao, có hàm ư về
việc dùng biện pháp quân sự. Xuân Thuỷ, cũng
như những nhà đàm phán Việt mà tôi gặp
gỡ, họ tỏ thái độ rất lịch
sự khi trả lời bằng cách lặp lại các
điều kiện tiên quyết của Hà Nội:
Mỹ rút quân và chính phủ Sài g̣n sụp đổ
trước khi có các cuộc đàm phán đầy ư
nghĩa. V́ Nixon không có ư
định thảo luận trong các điều kiện
như vậy, nên vào ngày 20 tháng 10 tại Toà Bạch
Ốc, ông quyết định lặp lại một
tối hậu thư cho Dobrynin, Đại sứ Nga.
Nixon cầm một tập ghi chú màu vàng từ trên bàn
của pḥng Bầu Dục đưa cho vị Đại
sứ và nói: “Tốt hơn, ông nên đưa ra
một vài ghi chú”. Dobrynin đặt vài câu hỏi
cần làm sáng tỏ và cho là không biết ǵ về
nội dung của vấn đề. Để ép Moscow và
Hà Nội phải cho ngày hẹn chót, Nixon c̣n đi xa hơn
khi cho rằng ngày 3 tháng 11 ông dự trù sẽ có bài
diễn văn nói chuyện về vấn đề
Việt Nam. Việc này trở thành một trong các cách
hùng biện nhất của ông. (C̣n tiếp) |