QUẦN ĐẢO
TRƯỜNG SA: TƯƠNG LAI ĐEN TỐI hay SÁNG
SỦA? Đại-Dương |
Từ
ngàn xưa, Quần đảo Trường Sa cung
cấp hải sản dồi dào cho các dân tộc Đông
Nam Á, kể cả Trung Quốc, Đài Loan. Với
những phương tiện đánh bắt hải
sản truyền thống đă duy tŕ được lượng
hải sản dồi dào cho cư dân Đông Nam Á, Trung
Quốc, Đài Loan. Ngư
dân Đông Nam Á và Đài Loan chiếm một số “đảo
nhỏ” làm nơi cư ngụ cho ngư phủ hành
nghề. Theo thời gian trôi qua và nhu cầu đánh
bắt hải sản nên một số ngư dân xây
dựng nhà cửa và làng xóm trên các đảo nhỏ
sinh sống nhờ nghề cá. Mỗi
sắc dân quy tụ trên một vài đảo nhỏ liên
kết với nhau trên danh nghĩa quốc gia chôn nhau
cắt rốn: Việt Nam, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mă
Lai Á, Trung Quốc. Ngư dân từ Trung Quốc từ
ngàn xưa hành nghề tại Quần đảo Trường
Sa theo mùa cá. Ngư
dân Việt Nam, Mă Lai Á, Đài Loan, Phi Luật Tân, Trung
Quốc vẫn đánh bắt cá chung tại Trường
Sa, đôi khi có va chạm, nhưng, không nghiêm trọng
nên cũng trôi theo thời gian. Trung
Quốc, Đài Loan, Việt Nam công khai đ̣i quyền
làm chủ toàn bộ Quần đảo Trường Sa
tạo ra các vụ đụng độ vũ trang ác
liệt trên Biển Nam Trung Hoa giữa Quân đội
Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Phần thua
thiệt thuộc về phía Việt Nam. Trung
Cộng và Việt Cộng tuy cùng hệ thống chính
trị vẫn đụng độ chết người
tại Trường Sa về chủ quyền v́ bất
chấp các quy định chi tiết trong Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982
(UNCLOS). Việt
Nam, Phi Luật Tân đă từng tranh chấp gay gắt
với Trung Quốc tại Trường Sa mà lợi
thế vẫn nằm về phía Bắc Kinh bởi
lẽ họ áp dụng UNCLOS theo quyền lợi
quốc gia chứ không quan tâm tới công pháp quốc
tế. Điều này chỉ có lợi cho cường
quốc và dồn mọi bất lợi vào đám nhược
tiểu. Bắc
Kinh đang sử dụng sức mạnh quân sự
để áp đặt chủ quyền trên Biển Nam
Trung Hoa, kể cả Nhóm đảo Trường Sa.
Trung Quốc đạp trên UNCLOS mà đi để
lại thiệt hại cho các nước nhược
tiểu. Không
có quốc gia duyên hải Đông Nam Á nào có thể
đơn phương chống Bắc Kinh mà thành công,
nếu không muốn nói là thêm thiệt hại. Muốn
thoát khỏi chiếc ṿng kim cô của Bắc Kinh đặt
trên đầu th́ Các Quốc gia Duyên hải Đông
Nam Á phải coi UNCLOS như khuôn vàng thước
ngọc để giải quyết những gút mắc,
rắc rối trên vùng biển giàu tài nguyên thiên nhiên
được nhiều quốc gia đơn phương
tuyên bố chủ quyền tuyệt đối. Các
quốc gia duyên hải Đông Nam Á: Việt Nam, Thái
Lan, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, Mă Lai Á, Indonesia, Brunei, Tân
Gia Ba phải tiến hành các biện pháp thay đổi
mọi thói quen khi Tuyên bố chủ quyền biển không
phù hợp với UNCLOS mà họ đă kư và phê
chuẩn. Thứ
nhất, thay đổi tên gọi Biển Nam Trung Hoa thành
Biển Đông Nam Á. Biển Nam Trung Hoa theo tên gọi
của các thương thuyền Châu Âu để
chỉ vùng “Biển phía Nam Trung Hoa” chứ không
phải của Trung Hoa. Nhưng, các triều đại
Bắc Kinh cứ nhập nhằng thành Biển thuộc
về Trung Hoa. Một
cuộc vận động sử dụng tên “Biển
Đông Nam Á” v́ nằm trong khu vực Đông Nam Á
vẫn chưa được Cộng đồng Nhân
loại chính thức công nhận. Cần đầu tư
thêm theo thời gian để thay đổi sai lầm
trong quá khứ. Biển Đông Nam Á không phải
của người Đông Nam Á mà mang ư nghĩa xác
thực thuộc “VÙNG ĐÔNG Nam Á”. Như thế, không
c̣n ai có thể nhập nhằng rằng vùng biển này
thuộc về Đông Nam Á hay của Trung Quốc. Biển
Mễ Tây Cơ không phải của Quốc gia Mễ Tây
Cơ. Ấn Độ Dương không phải của
nước Ấn Độ. Vậy, Biển Nam Trung Hoa
không thuộc về Trung Hoa như kiểu suy nghĩ méo
mó của người Tàu. Công
ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
(UNCLOS) ra đời năm 1982 mà hầu hết các
quốc gia đi biển trên thế giới đă kư
kết và thi hành. Nhưng, cũng có một số ít
quốc gia không thi hành nghiêm chỉnh. Trung
Quốc, Đài Loan và Các quốc gia Duyên hải Đông
Nam Á không tuân thủ nghiêm chỉnh Công ước
về Luật Biển năm 1982 nên khó giải
quyết tranh chấp dứt khoát trên Biển. T́nh
trạng này chỉ có lợi cho quốc gia hùng mạnh
lấn áp, cướp dần lănh hải và lợi
thế kinh tế của các nhược tiểu. Thứ
hai, thái độ “đèn nhà ai nấy rạng” trong
các Quốc gia Duyên hải Đông Nam Á tạo điều
kiện cho Bắc Kinh hôm nay lấn áp nước
nầy, mai cắt xén duyên hải nước kia làm cho
ảnh hưởng của Bắc Kinh ngày càng đè
nặng lên các quốc gia Đông Nam Á, ngoại trừ
Tân Gia Ba bé bỏng. Tân
Gia Ba bé hạt tiêu mà phát triển thần kỳ
nhờ dựa hẳn vào Hoa Kỳ vô-điều-kiện
nên Bắc Kinh không dám đụng tới sợ sẽ
chạm mặt với Đệ thất Hạm đội
Hoa Kỳ (lớn mà mạnh nhất trong các Hạm
đội Quốc tế) đóng tại Hải
cảng Yokosuka của Nhật Bản sau Đệ
nhị Thế chiến. Các phát triển khoa học,
kỹ thuật, quân sự của Mỹ được
áp dụng tại Tân Gia Ba làm cho Bắc Kinh không dám
đe dọa chú bé hạt tiêu này. Tṛ chơi ở thế hạ phong Việt
Nam đă bồi đắp 9,5 km2 ở Trường Sa
so với 18,8 km2 của Trung Quốc. Bắc
Kinh xây “đảo nhân tạo” tại Nhóm đảo
Trường Sa với mục đích “cải thiện
điều kiện sinh hoạt, pḥng vệ tại
chỗ, củng cố chủ quyền, an ninh quốc pḥng,
tuần tra kiểm soát biển, phục vụ ngư dân
và có thể khai thác du lịch”. Báo
cáo của Viện Nghiên cứu Minh bạch Hàng hải
Châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược
và Quốc tế (CSIS) được công bố vào ngày
07/6/2024 cho biết trong sáu tháng qua, Việt Nam đă
bồi đắp 4 tiền đồn ở Trường
Sa, với diện tích đất gần bằng hai năm
(2022 và 2023) cộng lại. Đảo
đá Thuyền Chài nằm trên một rạn san hô dài
29,3 km, rộng 3,5 km nằm trong vùng Đặc quyền
Kinh tế (EEZ) của Mă Lai Á mà Việt Nam đă đóng
quân từ tháng 4/1978. UNCLOS
quy định “việc bồi đắp không làm thay
đổi t́nh trạng trước đó của
thực thể địa lư, tức là nếu trước
là băi nửa ch́m nửa nổi, hay băi đá th́
chỉ có vùng an toàn 500m mà thôi ”. Bắc Kinh thường
tố cáo và đe dọa chiến hạm Hoa Kỳ
tuần tra trên Biển Nam Trung Hoa hoàn toàn trái với
UNCLOS. Các chiến hạm Hoa Kỳ tuần tra thoáng qua
trong vùng biển các Đảo Nhân Tạo của Trung
Quốc ở Trường Sa chứ không bị “Quân
đội Trung Quốc đuổi đi” như tuyên
truyền của Bắc Kinh. Việc
phá hoại các rạn san hô khi xây đảo nhân
tạo ở Trường Sa làm mất chỗ cư
ngụ của thuỷ sản và thực phẩm
thuỷ sản làm thiệt hại đến nhu cầu
sinh sống của con người. Hà
Nội sẽ xây dựng đường băng 3,000m trên
Đảo đá Thuyền Chài cũng vẫn nằm dưới
cơ của Bắc Kinh nếu tranh chấp vũ trang
diễn ra v́ 1 đấu với 3. Các
đường băng hiện có của Trung Cộng và
Việt Cộng tại Trường Sa đều
nằm trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của Mă
Lai Á hoặc Phi Luật Tân. Hà
Nội và Bắc Kinh theo hai hướng khác nhau:
Việt Nam xây thêm đảo nhân tạo. Trung Quốc
mở rộng vùng kiểm soát. Cả Hà Nội và
Bắc Kinh đều làm chuyện trái với công pháp
quốc tế. Tất cả các nước liên quan
đến sinh hoạt trên Biển Nam Trung Hoa đều
hành xử trái với các quy định trong UNCLOS nên
tranh chấp cha đẻ ra tranh chấp con, cháu không bao
giờ chấm dứt. Trung
Quốc có đội tàu đánh cá đồ sộ và
đông đúc nhất thế giới. Chúng thao túng ngành
đánh bắt hải sản thế giới và né tránh
các cường quốc. Chúng cào, chúng quét hải
sản lớn cũng bắt, nhỏ không tha rồi di
chuyển tới nơi khác. Đa số các quốc gia
duyên hải chưa đủ mạnh nên bó tay trước
sự hung hăng của các tàu cá Trung Cộng. Từng
ngày, từng giờ, từng phút, từng giây đoàn tàu
cá của Trung Cộng cào quét thuỷ sản lớn không
bỏ, nhỏ chẳng tha cho đến khi cạn
kiệt. Bắc
Kinh đă đánh tráo ư nghĩa thực sự của
“South China Sea” thành chiếc ao nhà của Trung Cộng
với ư đồ: (1) Làm địa điểm thao dượt
của Hải Quân và Thuỷ quân Lục chiến
Bắc Kinh. (2) Chiếc ao hải sản của dân
tộc Trung Hoa. (3) Lănh hải của Trung Quốc
bất khả xâm phạm. (4) Áp đặt quyền
thống trị trên Biển Nam Trung Hoa. Nguy cơ khó lường trên Biển Nam Trung Hoa Nếu
Bắc Kinh làm chủ trọn vẹn Biển Nam Trung Hoa:
(1) Dân Hoa Lục sẽ kéo nhau tới Trường Sa
lập nghiệp ngày càng đông làm thay đổi môi
trường sống của hải sản. (2) Chiến
tranh Trung Quốc-Tây Phương nếu xảy ra sẽ
vô cùng ác liệt làm cho thuỷ sản ngày càng cạn
kiệt. (3) Cái chết từ từ của môi trường
thuỷ sản Trường Sa khó tránh đ̣i hỏi
giải pháp ngăn cản tham vọng điên rồ
của Bắc Kinh. (4) Bổn phận của Cộng
đồng Quốc tế là áp lực buộc Bắc
Kinh phải tôn trọng triệt để Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982
(UNCLOS). Cho tới nay, Bắc Kinh vẫn chưa thay đổi.
Các mục tiêu hoà b́nh phải đạt được
trên Biển Nam Trung Hoa Cộng
đồng quốc tế phải có trách nhiệm: (1)
Áp lực triệt để buộc các quốc gia thành
viên của Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) phải tôn trọng và
thi hành nghiêm chỉnh tất cả các quy định
quốc tế mà họ đă cam kết. (2) Trợ giúp
các quốc gia duyên hải Đông Nam Á về mặt pháp
lư cũng như quân sự đủ sức chống
lại tham vọng vô bờ của Bắc Kinh trên
Biển Nam Trung Hoa. (3) Tôn trọng nghiêm chỉnh UNCLOS và
hợp lực giữa các quốc gia duyên hải Đông
Nam Á cùng với các cường quốc biển mới
có thể tiêu diệt được tham vọng điên
cuồng của Bắc Kinh. BIỂN
ĐÔNG NAM Á thay thế tên BIỂN NAM TRUNG HOA sẽ mang
lại hoà b́nh cho nhân loại. Đại-Dương |