Webmaster: Thêm bài viết nầy
làm tài liệu nghiên
cứu thực hư. No comment !
Cần trả lại sự
thật cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau
30/4/1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm
mất nước cho Tổng Thống Thiệu để
cho người ta không oán hận Mỹ đă bỏ rơi
VNCH. Giờ đây đă 44 năm trôi qua, nếu người
Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu, th́ cũng nên trả lại
sự thật cho lịch sử.
Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu cho tới trước khi chết Ông vẫn cúi
đầu nhận chịu trách nhiệm đă làm cho
mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà
cá nhân một người không thể nào gánh vác.
Nếu có một người nào đó đứng ra
nhận chịu th́ quả là vô lư, thế nhưng Ông
Nguyễn Văn Thiệu đă làm.
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ
thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3
triệu cựu chiến binh tại chiến trường
Việt Nam, 58 ngàn người đă chết, và 3.000 quân
nhân c̣n mất tích. Xă hội Mỹ phân hóa trầm
trọng với tranh căi đổ lỗi cho nhau.
Chính v́ vậy mà những người quân nhân VNCH không
bao giờ động chạm tới nỗi đau
của người bạn chiến đấu Mỹ,
họ đă làm hết sức của họ rồi,
họ đă phải chết tới 58.000 người và
đă hao tốn 300 tỉ USD, lại c̣n phải nuôi 3
triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào
cuộc đời cũng tan nát do bị khủng
hoảng, bị thất bại v́ không thể trở
lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để
xoa dịu sự oán hận của người Việt
sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ
Rơi Đồng Minh” khác với “Phản
Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi
thích th́ tôi giúp, khi thấy mệt mơi quá th́ tôi không
giúp nữa. C̣n Phản Bội là phỉnh gạt,
lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn
nhận là họ Bỏ Rơi VNCH c̣n hơn là nhận
Phản Bội VNCH.
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định
làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh
khỏi phải đi lính và chiến đấu tại
VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm
viêc tại chi nhánh CIA tại Sài G̣n trong tư
thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông
trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm
vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo
chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972 ông bị đày
đi VN v́ tội đă báo trực tiếp cho Ṭa
Bạch Ốc một thông tin ông đọc được
trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn
của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của
Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài
phát thanh của CSVN và VNCH để tŕnh cho Polgar, trưởng
CIA tại Sài G̣n, những tin nào mà ông ta thấy đáng
quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết
định viết thành sách về những ǵ ông
chứng kiến trong vai tṛ một nhân viên CIA làm
việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn
cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh
chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám
tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA
không được phép tiết lộ.
CIA đă đưa ông ra ṭa v́ ông
đă hành động trái với lời tuyên thệ
khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Ṭa án
đă phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết
lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng
quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent
Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này
chỉ có hiệu lực h́nh thức bởi v́ cả
thế giới đều đă đọc Decent
Interval..
Theo Frank Snepp th́ mọi chuyện đều bắt đầu
từ khi kư kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng
sau khi kư kết Hiệp Định, Tổng Thống
Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN
thay Bunker. Frank Snepp mô tả vai tṛ
của Đại sứ Martin: “Mỹ
buộc phải bỏ khỏi Việt Nam trong tư
thế đường hoàng, và muốn tạo
được ấn tượng như vậy th́
cần phải có một chuyên gia về ảo thuật
và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư
phụ. (Trang 75, nguyên văn: “The United States was obliged to crawl
out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of
conjuring and stagecraft at which Martin so adept”). Như
vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đă
được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon
đệ tŕnh Quốc Hội Mỹ bản dự
thảo hiệp ước giao thương giữa
Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội
Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon
đă trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ
khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải kư hiệp
ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa
ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ
được thông qua dễ dàng v́ lợi ích chung
của cả hai nước, nhất là từng bước
giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà
dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đă tính lầm, Quốc Hội Mỹ
đoán rằng c̣n nhiều cái giá khác nữa giữa
Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972. V́
vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng
hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để
buộc Nixon phải ḷi ra những thỏa thuận khác.
Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc
quyền hành pháp để từ chối.
V́ vậy Quốc Hội có một cách khác để
moi ra những ǵ mà Nixon đă cam kết với LX, TQ và
Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ
Watergate để triệu tập một Ủy ban
điều tra đặc biệt về sai phạm
của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố
viên của ủy ban điều tra có quyền bắt
Nixon phải đưa ra tất cả những cam
kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và
cả Hà Nội.
Nixon chỉ c̣n có cách từ chức
để né tránh Ủy ban điều tra bởi v́ ông
và Kissinger đă có những thỏa thuận mật
với đối phương mà không xin phép Quốc
Hội. Một khi ông từ chức th́ những
cam kết của ông trở thành vô hiệu lực.
Quốc Hội sẽ không c̣n cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức th́ Quốc Hội Hoa Kỳ cho
thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các
nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo
luật Jackson-Vanik). Sự trở mặt của
Quốc Hội Mỹ đă khiến Liên Xô tức
giận bởi v́ những cam kết của Nixon khi ông
ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đă không
được thi hành. V́ vậy, cuối
năm 1974, Đại Tướng Kulikov của
Liên Xô đến Hà Nội để
xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền
Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của
Hiệp Định Paris th́ Hà Nội ngưng bắn vô
điều kiện, trao trả cho Mỹ
591 tù binh Mỹ vô điều kiện, trao trả tù binh
VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù
binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38
ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn
tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng
chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn
ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành
thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền
Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như
Hiệp Định Geneve 1954.
Nh́n bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô
lư cho nên giới quan sát quốc tế thừa biết
bên trong phải có một mật ước riêng.
Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng Thống Jimmy
Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước
riêng đằng sau Hiệp Định Paris được
Nixon kư với Hà Nội 4 ngày sau khi kư kết Hiệp
Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà
Nội cho công bố toàn văn bản mật ước
Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo đó th́ Nixon hứa sẽ viện
trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và
viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5
tỉ USD. Trong ṿng 30 ngày sau khi người tù binh
HK cuối cùng rời khỏi VN th́ hai bên sẽ
thiết lập xong hệ thống viện trợ tái
thiết, và trong ṿng 60 ngày sau đó th́ lập xong
hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang
tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng kư
nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông
chờ món tiền của Kissinger và đến
cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà
Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam th́ có
nghĩa là Hiệp Định Paris coi như tờ
giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu
không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được
đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian
khổ, hằng triệu người chết, hằng
chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến
nay chỉ c̣n là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động
chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và
tập đoàn lănh đạo CSVN thực sự
trắng mắt. Dân chúng Miền
Bắc đă kiệt sức, trong 5 năm nhà nước
đă đóng cửa tất cả 18 trường đại
học và cao đẳng, ḅn vét nhân lực đến
độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại
Miền Bắc chỉ c̣n một trời đàn bà góa…
th́ lấy đâu để gây chiến tranh trở
lại.
*(Theo hồi kư của tướng CSVN Hoàng Văn Thái
th́ cho tới năm 1974 Hà Nội đă động viên
đến 16% dân số, không thể nào động viên
thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%)
Bắt đầu từ năm 1975 Đại
Tướng Cao Văn Viên viết tường tŕnh cho
Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng
của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm
1983 mới được in thành sách với tựa
đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau,
2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử
Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với
tựa đề “Những ngày cuối của
Việt Nam Cộng Ḥa”. Trong sách có kèm theo những
chú giải mới nhất của Đại Tướng
Cao Văn Viên. “Một sự thực
không thể chối căi là quân đội VNCH sẽ
hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm
1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn
Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn
Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ
cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng
John Murray và ban tham mưu của ông đă làm
việc ngày đêm để cố gắng t́m đáp
số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng
mỗi lần họ t́m ra một giải pháp để
giải quyết vấn đề th́ lại phát sinh
một vấn đề khác mà kết quả cũng
chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp,
Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng
của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam..
Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris
1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa
Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách
về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong
nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy
nhiên Ngũ Giác Đài đă cho ông biết trước
là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng
theo các chuyên viên tham mưu của John Murray th́ 700
triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp
buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn
Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng
Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng
Cục Tiếp Vận) và một số tướng lănh
của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng
Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên
kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả
Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên
“Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều
nói rằng lên kế hoạch về quân sự th́
được, nhưng về mặt chính trị th́ không
thể nào thi hành nổi”. Sau buổi
họp này th́ John Murray giải ngũ, trở
về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng
(Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) th́
ông đă t́nh cờ trông thấy bản kế
hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện
Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng
Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng
trước khi Nixon từ chức. Như
vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch
bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch
mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng
kiến (tối kiến) của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng
Thống đă bị báo chí Mỹ cố t́nh gieo
tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng
thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi kư của Đại Tá
Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn
công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi
tiệc mừng Giáng Sinh được Tướng
Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ
Tổng Tham Mưu, tổ chức trên lầu của Câu
lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng
Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK
tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng
Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm
Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại
Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục
Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng
Smith); Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bá (Chánh Văn Pḥng
của Tướng Khuyên).
Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ
Quốc Pḥng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân
khoản dự trù hơn 300 triệu đollar để
di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia
đ́nh, nhưng thời gian th́ chưa rơ”
(Phạm Bá Hoa, Đôi Ḍng Ghi Nhớ, Bản in lần
4, trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành th́
tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều
c̣n sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối,
kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện
này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi
Miền Nam đă được lên giàn trước khi
mất Phước Long chứ không phải là sau khi
mất Ban Mê Thuột. Người ta đă tính toán
sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ
trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính
trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi
mất Phước Long là: “Nhà Trắng nói rằng:
Tổng Thống Ford không có ư vi phạm những điều
cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc
sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ
tại Việt Nam” (Hồi kư của Tướng CSVN
Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn
Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng
không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ
thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng
Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm
miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng Phước
Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường
vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung
tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu cố t́nh bỏ Phước
Long để thử xem phản ứng của Mỹ.
Sở dĩ CIA đổ
cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội
Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ
quân sự cho VNCH.
-Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một
cuộc họp đầu tuần của Bộ
Ngoại Giao HK, Kissinger đă giải thích hành động
viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính
Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây
là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục
viện trợ để cho sau này không ai có thể trách
chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank
Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the
Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to keep
open the aid pipeline so no one could later blame the United States for the
disaster”).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên
chức Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên
đường đi Trung Đông: “Hăy làm mọi cách
để Quốc Hội tiếp tục duy tŕ viện
trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không
phải để cứu văn hai nước đó, mà v́
không thể nào cứu văn được hai nước
đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do
every thing possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to
Cambodia and Vietnam- not because the two countries were necessarily
salvageable, but precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này th́ Văn
Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt
Nam sụp đổ do không c̣n viện trợ. Và
với mức độ viện trợ nhỏ giọt
th́ đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH
sẽ không c̣n Gạo và không c̣n Đạn (Tài
Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao
Văn Viên). V́ thế Kissinger mong cho Quân
đội VNCH tự tan ră trước khi hết
Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc
đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội
Sài G̣n đă thua chạy trước sức tiến công
vũ băo của quân Hà Nội.
Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê
Thuột. Theo Đại Tướng Cao Văn Viên “Ngày
11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm,
Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau
đó tŕnh bày ư định muốn cắt bỏ
bớt lănh thổ cho vừa với mức viện
trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng
Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó:
“Quyết định của Tổng Thống Thiệu
cho chúng tôi thấy đây là một quyết định
ông đă suy xét thận trọng. H́nh như Tổng
Thống Thiệu đă ngần ngại về quyết
định đó, và bây giờ ông chỉ thổ
lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống
Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất
quan trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng
ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban
Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku
nhập lại…” (Cao
Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của
Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị
tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào
… . Một thực tế gần như hiển nhiên là
Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và
biểu quyết viện trợ để VNCH đánh
tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối
với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đă
kết thúc” (trang 132).
Henry Kissinger viết trong hồi kư của ông:
“Cho đến hôm nay tôi kính trọng ông Thiệu như
là một gương hào hùng của một kẻ dám
chiến đấu cho nền tự do dân tộc
của ông, một kẻ sau này đă chiến bại
bởi những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân ông,
đất nước ông và ngay cả ngoài ṿng
quyết định của chúng ta…” ( Henry Kissinger,
Years of Upheaval, 1981, Bản dịch của Xuân Khuê)
Kissinger là người mà T.T. Nguyễn Văn Thiệu ghét
cay ghét đắng cho tới khi xuống mồ. Trong khi
ngược lại, Kissinger cũng làm ra vẻ ghét cay
ghét đắng T.T. Nguyễn Văn Thiệu, kẻ mà báo
chí và nhân dân Mỹ luôn luôn nguyền rủa là
cản trở và phá hoại ḥa b́nh.
Tuy nhiên cuối cùng, khi mà ḥa b́nh đă đạt
được bằng cái giá phản bội dân
tộc Việt Nam, Kissinger mới b́nh tâm thú thực
cảm nghĩ của ông ta về người anh hùng lănh
đạo đất nước Việt Nam trong
thời gian gay cấn nhất của lịch sử.
Kissinger nói :
“… Sau khi ngưng bắn, quân đội chúng ta sẽ
rút về bên kia bán cầu, c̣n dân tộc của ông
vẫn c̣n cảnh một đội quân tiếp
tục hy sinh cho những hy vọng mong manh của
nền độc lập tại Đông Dương. Chúng
ta đă chắc rằng biện pháp của chúng ta
sẽ kềm hăm tham vọng của Hà Nội. Nhưng
mắt của ông T.T. Thiệu chỉ quan ngại vào
những điều mong manh về sau này…” ( Bản
dịch của Xuân Khuê ).
Kissinger cũng thú thực là v́ không c̣n cách lựa
chọn nào khác cho nên Mỹ đành phải hy sinh Nam
Việt Nam, và cũng v́ vậy mà Kissinger đành
phải đóng vai làm kẻ thù của T.T. Nguyễn Văn
Thiệu nhưng tự sâu xa trong đáy ḷng, Kissinger khâm
phục T.T. Thiệu :
“…Như là một phép lạ phát xuất từ ḷng
dũng cảm, ông Thiệu đă cố gắng lèo lái
quốc gia trong giai đoạn cam go này, chiến đấu
chống lại quân thù cố tâm xâm lấn và làm an tâm
đồng minh nào chưa thông hiểu ông …
… Về riêng tư tuy tôi dành ít cảm t́nh về ông
T.T. Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông v́ ông là
một người kiên tâm chiến đấu trong
nỗi cô đơn ghê gớm ( nguyên văn: terrible
loneliness ) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông
chấp nhận những cảm t́nh và thông hiểu ít
ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm
chất của ông hao ṃn đi…” ( Bản dịch
của Xuân Khuê ).
Ngày 22-10-1972 Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu đă nổi giận khi Kissinger ép buộc ông
phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp
định đ́nh chiến mà Kissinger đă cùng Lê
Đức Thọ soạn thảo tại Paris. Ông
khuyến cáo Kissinger :
“Tôi không đồng ư về việc một số nhân
viên của quư vị đi nói khắp Sài G̣n là tôi
đă kư. Tôi chưa kư kết ǵ cả. Tôi không
phản đối ḥa b́nh nhưng tôi chưa nhận
được một trả lời thỏa đáng nào
của quư vị cho nên tôi sẽ không kư”.
Kissinger mất b́nh tỉnh với tuyên bố của
Tổng thống Thiệu, ông nói ông đă thành công
ở Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và Paris mà bây giờ
ông phải thất bại tại Sài G̣n : “Nếu ngài
không kư, chúng tôi sẽ xúc tiến một ḿnh”.
Tới phiên Thiệu nổi giận, ông buộc tội
Kissinger là thông đồng với Bắc Kinh và Mạc
Tư Khoa để bán đứng Miền Nam. Hồi kư
của Kissinger ghi lại lời lẽ của Thiệu:
“Là một quân nhân th́ lúc nào cũng phải chiến
đấu, nếu tôi không phải là một quân nhân
th́ tôi đă từ chức khi HK yêu cầu tôi từ
chức và c̣n mặc cả với tôi về ngày
giờ từ chức… … Tôi chưa hề nói với
ai là người Mỹ đă đ̣i tôi từ
chức, v́ như vậy là nhục; cho nên tôi đă làm
như tự ḿnh chọn lấy quyết định
đó…” (Kissinger, White House Years, trang 1385).
Kissinger đáp lại : “Tôi cảm phục tính hy sinh và
ḷng can đảm của ngài qua lời phát biểu
vừa rồi. Tuy nhiên, là một người Hoa
Kỳ, tôi không khỏi phiền ḷng khi ngài cho rằng
chúng tôi thông đồng với Liên Xô và Trung Quốc.
Làm sao ngài có thể nghĩ như vậy được
trong khi quyết định ngày 8-5 của Tổng
thống Nixon ( Thả bom Hà Nội và phong tỏa các
hải cảng Bắc Việt ) đă liều cả tương
lai chính trị của ḿnh để giúp quư ngài. Chúng
tôi điều đ́nh với Liên Xô và Trung Quốc là
để làm áp lực, buộc họ phải làm áp
lực với Hà Nội… Nếu như chúng tôi
muốn bán đứng quư ngài th́ đă có nhiều cách
dễ dàng hơn để hoàn thành việc đó…”(
Kissinger, White House Years, trang 1385, 1386 ).
Rồi tới phiên Đại sứ Bunker mất b́nh
tỉnh : “Vậy th́ thưa Tổng thống, lập
trường chót của ngài là không kư, có phải không?”
T.T. Thiệu đáp : “Vâng, đó là
lập trường cuối cùng của tôi. Tôi sẽ
không kư và tôi xin ngài thông báo cho Tổng thống Nixon
biết như thế. Xin quư vị trở lại
Washington và nói với Tổng thống Nixon rằng tôi
cần được trả lời”.
Tổng thống Thiệu chỉ tay vào bản đồ
Việt Nam rồi nói : “Có ǵ quan trọng khi Hoa Kỳ
để mất một quốc gia nhỏ bé như Nam
Việt Nam? Chúng tôi không hơn ǵ một chấm
nhỏ trên bản đồ của thế giới
đối với các ông… … Nhưng đối
với chúng tôi, đó là một sự chọn lựa
giữa sự sống và sự chết.
Đối với chúng tôi, đặt bút kư vào một
hiệp ước tương đương với
sự đầu hàng là chấp nhận một bản
án tử h́nh, v́ cuộc sống không có tự do là
sự chết. Không, nó c̣n tệ hơn là sự
chết” ( Larry Berman; No Peace, No Honor; trích từ Văn
khố Bộ ngoại giao HK, bản dịch của
Nguyễn Mạnh Hùng trang 230 ).
Sau 1975 th́ người Mỹ muốn lái sự oán
hận mất nước của nhân dân Miền Nam vào
ông T.T. Nguyễn Văn Thiệu và quân đội VNCH
để quên đi hành động “bán đứng
đồng minh” của Mỹ *( Lời của ông T.T.
Nguyễn Văn Thiệu nói thẳng vào mặt Kissinger
năm 1972 ). Họ vận động các phương
tiện truyền thông tiếng Việt tại hải
ngoại kết án ông Thiệu làm cho mất nước.
Họ kết án quân đội VNCH hèn nhát, tham nhũng
v.v,… Họ dập tắt tiếng nói thanh minh của
ông Thiệu và của những quân nhân VNCH. Họ thuê
bọn vô lại biến phong trào chống Cọng
sản tại hải ngoại thành những tṛ thối
tha vô liêm sỉ….!
Hằng năm cứ vào mùa tháng Tư th́ các phương
tiện truyền thông tiếng Việt như RFA, BBC,
…lại rộn lên những luận điệu kêu
gọi ḥa hợp ḥa giải giữa chế độ
CSVN và những người đă bị đuổi
chạy ra nước ngoài. Họ coi những người
rượt đuổi và những người bị
đuổi đều tội lỗi như nhau.
Trong khi đó cuộc chiến Nam Bắc Hàn cũng
giống hệt như cuộc chiến Việt Nam. Nhưng
ngày nay RFA, BBC… nói cho con cháu Nam Hàn rằng năm 1950
quân Bắc Hàn tràn qua vĩ tuyến 38 đánh chiếm
Nam Hàn. Quân đội Mỹ đă giúp nhân dân Nam Hàn
đẩy lui quân Bắc Hàn về Bắc. Tội
lỗi đều là phía Bắc Hàn chứ phía Nam Hàn
không có lỗi.
Nhưng đối với cuộc chiến Việt Nam th́
quân Bắc Việt cũng tràn qua vĩ tuyến 17 đánh
chiếm Miền Nam nhưng Mỹ lại nói : Phía CSVN và
phía VNCH đều có lỗi cho nên Mỹ đứng
giữa không biết giúp bên nào !! Cho tới nay cũng
chưa ngă ngũ bên nào phải bên nào trái.
Cũng v́ chưa ngă ngũ bên nào phải bên nào trái
cho nên cho tới nay danh dự của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu vẫn chưa được
phục hồi. Người Mỹ
vẫn muốn con cháu Việt Nam nh́n Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu như là một kẻ luôn luôn
cản trở và phá hoại ḥa b́nh.
Bùi Anh Trinh
|