Project Syndicate
Ba cuốn sách gần đây về chiến tranh
Việt Nam đă làm sáng tỏ một lĩnh vực thường
được đề cập tới, cho thấy
rằng, sự thất bại của Hoa Kỳ cách
đây nửa thế kỷ vẫn c̣n nhiều điều
để dạy cho chúng ta. Nhưng các chuyên gia về
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đă cho
thấy là họ không có khả năng quan tâm đến
những bài học đúng đắn.
John Kerry, một cựu chiến binh Hải quân đuợc
ân thưởng huy chương, đă hỏi Ủy ban
Đối ngoại Thượng viện vào tháng 4 năm
1971 rằng: “Làm thế nào để quư vị
hỏi được một người cuối cùng
tử trận tại Việt Nam. Làm thế nào quư
vị hỏi họ chết như thế nào cho
chuyện sai lầm?“. Đó là một câu hỏi hay và
một số trong những người tham gia vào các
cuộc chiến hiện nay ở Afghanistan, Iraq, Syria và các
nơi khác có thể ngạc nhiên cho các vấn đề
tương tự
Tất nhiên, Kerry đă tiếp tục trở thành Thượng
Nghị sĩ, đồng thời là ứng cử viên
Tổng thống thuộc Đảng Dân chủ năm
2004 và giữ chức Ngoại trưởng trong
nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Barack
Obama. Trong vai tṛ Ngoại trưởng, Kerry nỗ
lực trong ám ảnh, nhưng cuối cùng là vô ích,
để giải quyết các cuộc xung đột
cực kỳ khó khăn của Trung Đông và gây thêm
những ác mộng.
Sau đó, chuyện thật kỳ lạ là Kerry rất
ít được đề cập đến trong ba
cuốn sách tuyệt vời viết về câu chuyện
của người Mỹ ở Việt Nam của Max
Hasting và nhà sử học Liên Hằng Nguyễn về
cuộc chiến của Hà Nội, nhưng Kerry không
xuất hiện trong sách The Road Not Taken của nhà báo Max
Boot.
Tuy nhiên, như Kerry, Hastings và Boots nh́n chiến tranh
Việt Nam rơ như là một sai lầm về sự liên
hệ lâu dài cho chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ, ít nhất là trong việc thực thi. Trong
phần cuối của cuốn sách với đầy
đủ các chi tiết về cuộc chiến, Hastings
trích dẫn lời của Walt Boomer, một cựu
chiến binh Việt Nam, là người sau này lănh đạo
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ trong chiến tranh
vùng Vịnh lần thứ nhất (1990-1991): “Tất
cả liên hệ đến chuyện ǵ? Điều gây
phiền nảo cho tôi là chúng ta đă không học
được nhiều. Nếu đă học đuợc,
th́ chúng ta sẽ không xâm chiếm Iraq”.
Hy vọng nhiều hơn ư nghĩa
Khi George W. Bush ra lệnh xâm chiếm Iraq vào năm 2003,
chính quyền Bush minh định là tiêu diệt chế
độ Saddam Hussein và kết thúc chỉ sau 21 ngày
chiến đấu quy mô. Chuyện thắng trận
trở thành dễ dàng. Sau sự chia cắt Đông Dương
thuộc Pháp tại Hội nghị Genève 1954, ở
Việt Nam thảm kịch đă diễn ra trong màn
đầu. Sau cùng, một cuộc điều động
chính thức các lực lượng chiến đấu
của Hoa Kỳ tại Việt Nam lần đầu tiên
đă không diễn ra, măi cho đến tháng 3 năm
1965, khi khoảng 3.500 lính Thuỷ quân Lục chiến
đổ bộ vào băi biển gần Đà Nẵng, nơi
họ phối hợp với 23.000 “Cố vấn” quân
sự Mỹ đang hỗ trợ cho quân đội
miền Nam Việt Nam.
Sau đó, Tướng Hoa Kỳ William Westmoreland hứa
hẹn là chiến thắng sắp xảy ra th́
những cuộc tấn công đẫm máu gây cho các
lực lượng Nam Việt Nam và Hoa Kỳ biến nó
thành lời nhạo báng và tạo ra chiến thắng
quyết định cho Việt Cộng và Quân đội
Nhân dân Việt Nam của ông Hồ Chí Minh. Ngay cả Tướng
Westmoreland có thể không tin điều đó.
Hastings nhấn mạnh những phát hiện binh pháp
của Ngũ Giác Đài vào năm 1963 như sau: “SIGMA
I chỉ ra cho các nhà lănh đạo quân sự Hoa
Kỳ rằng chiến thắng sẽ cần nửa
triệu lính Mỹ; một cuộc thao diễn tiếp
theo sẽ kiểm tra về các lựa chọn cho
quyết định một cuộc không chiến; SIGMA
II kết luận rằng không có một cuộc không
tập nào sẽ làm lay chuyển được
đường lối của Hà Nội”.
Tuy nhiên, những cân nhắc về mặt chiến lược
trong thời Chiến tranh Lạnh đă gây cho sự can
dự của Mỹ vào Đông Dương là không
thể tránh khỏi, bắt đầu từ việc
cấp quân viện cho Pháp, Hastings ghi nhận rằng
điều này đă xảy ra, mặc dù thực
tế là “Cuối tháng 10 năm 1951, nó đă trở
thành hiển nhiên đối với các quan sát viên khách
quan, Pháp không có triển vọng thực tế nắm
được Đông Dương”.
Các ư kiến vẫn c̣n khác nhau về việc ông
Hồ Chí Minh là người đầu tiên và trước
hết là người theo chủ nghĩa dân tộc hay
Cộng sản. Nhưng, dù sao đi nữa, sau Chiến
tranh Triều Tiên và sự trỗi dậy của Mao
Trạch Đông ở Trung Quốc, Hoa Kỳ có
nhiều lư do để lo lắng rằng khi bị bao vây
bởi các cuộc nổi dậy của Cộng
sản, các nước châu Á có thể sụp đổ
giống như các quân cờ dominos nếu không có
Mỹ hỗ trợ.
Bên cạnh đó, đối với các giới nắm
quyền chính trị và quân sự ở Washington, DC,
chiến thắng các phong trào du kích được trang
bị tệ hại của Việt Nam, Việt Minh và
sau đó là Việt Cộng, dường như có sác
xuất cao hơn là thất bại, v́ t́nh h́nh là người
Anh trước đó đă tiến hành thành công
một chiến dịch chống lại phong trào giành
độc lập của Cộng sản Mă Lai. Tuy nhiên,
về sau khi nh́n lại vần đề, có ít
nhiều ngạc nhiên khi thấy rẳng người Pháp
và người Mỹ đă bị đánh bại
tại Việt Nam. Như nhiều tác giả trước
đây đă chỉ ra, những nỗ lực của phương
Tây chống lại phiên bản chủ nghĩa dân
tộc Việt Nam của ông Hồ Chí Minh, về
mặt cơ bản, là sai lầm.
Một vấn đề trọng đại là các chính
phủ liên tiếp của Nam Việt Nam đă tham nhũng
và không hiệu năng trong vô vọng. Người
miền Nam và giới lănh đạo quân sự của
họ đơn giản là không thể so tương
xứng với khả năng kháng cự và tinh thần
quyết tâm của lực lượng mang dép râu
của ông Hồ Chí Minh. Không nơi nào rơ ràng hơn là
thất bại thảm hại của Pháp tại Điện
Biên Phủ trong năm 1954 và chiến thắng không
đáng gọi là thắng v́ tổn thất qúa
nặng nề của Mỹ tại Khe Sanh trong năm
1968, (Pyrrhic victory).
Ngay sau trận Khe Sanh, Cộng sản bắt đầu
cuộc tấn công Tết, trong đó lực lượng
Bắc Việt và Việt Cộng phải chịu
tổn thất lớn hơn phe miền Nam và Mỹ,
chuyện không nghi ngờ ǵ. Tuy nhiên, một loạt các
cuôc đột kích kéo dài 9 tháng, bắt đầu
với hơn 100 mục tiêu vào Nam Việt Nam, đó là
một bước ngoặt và qua tiến tŕnh chiến
cuộc, số lượng chịu đựng của
Mỹ vuợt xa quá xa những ǵ mà nguời ta suy đoán
qua việc đếm các xác chết. Lạm dụng ma
túy lan tràn và các sĩ quan không được ḷng dân
sống trong nỗi sợ hăi liên tục bị “mưu
sát” bởi đồng đội. Như một
vị tướng Hoa Kỳ nói với Hastings: “Chúng tôi
đă đến Hàn Quốc với một đội
quân tệ hại và tôi luyện thành với một
đội quân tinh nhuệ; chúng tôi đă vào Việt
Nam với một đội quân quy mô và kết thúc
với một đội quân khiếp sợ”.
Tâm trí và bản ngă
B́a sách “The Road Not Taken” của Max Boot
Có thể liệu là cuộc chiến đă chuyển
biến khác đi không? Trong phần tiểu sử
của Edward Lansdale, một sĩ quan Không quân Hoa Kỳ
và nhân viên của CIA chống các hoạt động
nổi dậy, Boot đặt tầm quan trọng
của việc Mỹ không chiến thắng v́ không thu
phục “trái tim và khối óc”. Là một chuyên viên
vể quảng cáo gây được thiện cảm,
Lansdale đă khởi đầu binh nghiệp trong các
cuộc hành quân tâm lư chiến ở Philippines, nơi ông
đă thành công trong việc phát triển mối quan
hệ chân thành với người dân địa phương.
Với sự hỗ trợ của người
Philippines, Lansdale đă giúp đánh bại cuộc
nổi loạn của Cộng sản Huk và dàn dựng
để cho Ramon Magsaysay, người bạn của ông,
vào chức vụ tổng thống của đất nước.
Tuy nhiên, Lansdale mất tinh thần thường xuyên v́
những phương pháp thực hiện được
ở Philippines gần như không có hiệu quả
ở Việt Nam. Dù Lansdale đă có thể “gần
gủi” với người Việt, (ông quá thân
thiết với ông Ngô Đ́nh Diệm, Tổng
thống Nam Việt Nam) nhưng hoàn toàn lạc lối
khi điều hướng trong mê cung chính trị và
quan liêu của nước Mỹ, có thể là ở
Washington, DC hoặc Sài G̣n.
Về phần ḿnh, Hastings không quá ngưỡng mộ
Lansdale như Boot. Để chỉ ra cho độc
giả biết Lansdale nhận định t́nh h́nh
tại Việt Nam và vai tṛ của Lansdale trong đó như
thế nào, Hastings trích ra một đoạn trong điện
văn mà Lansdale gửi cho Tướng Maxwell Taylor,
Cố vấn Quân sự của Tổng thống John F.
Kennedy, vào năm 1961 như sau:
“Người Việt là dân tộc có khả năng và
nghị lực. Hiện nay, dường như họ không
là chính họ. Họ sẽ mất đất nước
nếu một số tia lửa không làm cho họ
bắt được ngọn lửa để đấu
tranh giành chiến thắng trong cuộc chiến này.
Sự châm ng̣i cũng có thể là đặt cho đúng
người Mỹ vào đúng trong lĩnh vực
của chính phủ Việt Nam để hướng
dẫn hoạt động. Đối với công
việc này, người Mỹ cần có tài năng và
cảm xúc”.
Điều rơ ràng là Lansdale là một trong những người
Mỹ như vậy, đó là lư do tại sao Lansdale thường
được coi là con người mẫu mực cho
Graham Greene trong tác phẩm The Quiet American (Greene phủ
nhận điều này) và Eugene Burdick và William Lederer
trong tác phẩm The Ugly American. Không c̣n nghi ngờ ǵ
nữa là đă có và vẫn c̣n những người
Mỹ có năng khiếu tương tự như
vậy đang cố gắng gây ảnh hưởng
đến chính sách ở Afghanistan và Trung Đông.
Nhưng tài năng và ḷng trắc ẩn không đảm
bảo cho hiệu quả. Khi Boot làm rơ là hầu
hết các sáng kiến lư tưởng của Lansdale
đă bị phá sản, đáng chú ư là Chiến
dịch Mongoose năm 1961 để lật đổ nhà
lănh đạo Cuba Fidel Castro sau thảm họa Vịnh
Con Heo. So Lansdale với Lawrence của Á Rập, Boot cho
rằng: “Giống như người tiền nhiệm
có tính khí lập dị và nổi loạn của ḿnh,
người có giấc mơ về tinh thần đoàn
kết của Ả Rập bị đế quốc Anh
và Pháp khuất phục, Lansdale kết thúc thời
của ḿnh với ám ảnh của cảm giác thất
bại”.
H́nh ảnh toàn vẹn hơn
Thành quả của Hastings và Boot là cả hai ư thức
được môi trường địa chính trị
rộng lớn hơn mà trong đó chiến tranh
Việt Nam diễn ra, từ sự chia rẽ Nga-Hoa vào
cuối những năm 1950 cho đến các hội
nghị thượng đỉnh lịch sử của
Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon với nhà lănh
đạo Liên Xô Leonid Brezhnev và Mao Trạch Đông
trong năm 1972. Cũng tương tự như vậy,
hai tác giả có khả năng giải thích những
chuyển biến quan trọng trong nền nội chính
của Hoa Kỳ, trong đó có vụ ám sát Kennedy vào năm
1963, giết chết những người phản
chiến biểu t́nh của Vệ binh Quốc gia Ohio
tại Đại học Kent vào năm 1970 và vụ bê
bối Watergate năm 1972 và hậu quả của nó.
Ai chịu trách nhiệm cho những ǵ mà Hastings và Boot
gọi là bi kịch? Cả hai quy trách cho Robert McNamara,
Cựu Chủ tịch Doanh nghiệp Ford Motor Company, người
từng giữ chức Bộ trưởng Quốc pḥng
Mỹ từ năm 1961 đến năm 1968. Một
mục tiêu chỉ trích khác trong cả hai cuốn sách là
Henry Kissinger, người từng là Cố vấn An ninh
Quốc gia và Ngoại trưởng dưới thời
Nixon. Dù Kissinger đă ra lệnh ném bom trừng phạt
ở Campuchia và Lào, hai nước láng giềng, nhưng
dù sao, Kissinger vẫn đoạt giải Nobel Ḥa b́nh cho
vai tṛ của ḿnh trong Hiệp định Ḥa b́nh Paris vào
năm 1973 (đối tác của ông là Lê Đức
Thọ cũng được trao giải, nhưng không
nhận).
Tuy nhiên, một trong số ba cuốn sách đang
được đề cập, th́ Cuộc Chiến
tranh của Hà Nội của Nguyễn Liên Hằng tóm
luợc toàn cảnh rơ ràng nhất về cuộc xung
đột. Sinh ra ở Hà Nội
chỉ năm tháng trước khi Sài G̣n sụp đổ
và gia đ́nh cô trốn sang phương Tây, hầu
hết Nguyễn Hằng dựa vào các tài liệu văn
khố và của các quan chức Bắc Việt để
đưa ra một viễn cảnh gần như luôn
bị bỏ sót trong các cuốn sách của các tác
giả phương Tây.
Thí dụ như Nguyễn Hằng cho chúng ta thấy
rằng trong khi ông Hồ Chí Minh vẫn là một nhân
vật huyền thoại trong Việt Nam đương
đại, ông Hồ đă bị Lê Duẩn, Tổng Bí
thư của Ủy ban Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam, loại trừ từ lâu trước
cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân. Cũng theo
cách tương tự, Lê Duẩn cũng tàn nhẫn
đoạt quyền của Tướng Vơ Nguyên Giáp,
bậc thầy mưu lược của Việt Nam trong
cuộc chiến chống Pháp. Trong khi Tướng Giáp
chủ trương một chiến lược hoà
dịu và và chiến thuật du kích, Lê Duẩn kiên
quyết cho một chiến lược mang tên là
Tổng tiến công và nổi dậy, liên quan đến
các cuộc tấn công trực tiếp vào các thành
phố miền Nam Việt Nam.
Như ngày nay chúng ta đă biết, cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy cuối cùng đă thành công
trong việc tạo ra việc đè bẹp ư chí
của Mỹ để tiếp tục cuộc
chiến. Nhưng chiến lược đă dẫn
đến thương vong to tát đáng kể cho quân
đội Bắc Việt và những người
ủng hộ họ. Như Hastings chỉ ra, trên
thực tế, có thể Bắc Việt Nam là một
quốc gia cai trị bằng công an, không giống như
các quyền tự do dành cho người miền Nam dưới
sự giám sát của người Mỹ.
Một lợi thế khác cho Lê Duẩn là khi nắm
được quyền lực gần như tuyệt
đối với các ủy viên khác trong Bộ Chính
trị, ông có thể theo đuổi một phương
sách tham vọng hơn trong binh pháp du kích so với Mao và
các nhà lănh đạo nổi dậy khác đă khai
triển trước ông. Đầu tiên, Mao kêu gọi
xây dựng sự hỗ trợ của dân chúng ở các
vùng nông thôn, sau đó là các cuộc tấn công du kích
và khủng bố chống lại kẻ thù, sự tham
gia trực tiếp chỉ dành cho giai đoạn
cuối của cuộc xung đột, nếu có.
Học thuyết của ông đă được Taliban
chứng minh là có hiệu quả. Sau 18 năm tránh
sự can dự trực tiếp với các lực lượng
liên minh, giờ đây họ là mối đe dọa ngày
càng tăng đối với chính phủ do Mỹ
hậu thuẫn ở Kabul. Ngược lại, Nhà nước
Hồi giáo (ISIS) đă chọn đối đầu
trực diện với quân đội chính quy của phương
Tây và Trung Đông và họ bị đánh bại trong
thời gian tương đối ngắn
Thiển cận dai dẳng
Sau khi cải cách Đổi mới vào cuối những
năm 1980, Việt Nam Cộng sản đă trở thành
một nền kinh tế thị trường định
hướng xă hội chủ nghĩa, một thành viên
của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á và là
địa điểm chào đón cho du khách Mỹ đến.
Chuyện rơ ràng là ngay cả những kư ức
khủng khiếp cũng có thể phai mờ theo
thời gian.
Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ phải để các kư
ức này hoàn toàn xoá mờ. Chiến tranh Việt Nam
đă cướp đi hơn 58.000 sinh mạng của
quân nhân Hoa Kỳ và từ hai triệu đến sáu
triệu người Việt Nam. Các cuộc chiến
của Mỹ ở Afghanistan và Trung Đông đă
dẫn đến cái chết của ít hơn 8.000 người
Mỹ. Sự khác biệt có thể được
giải thích bởi một số yếu tố, bao
gồm những cải tiến phi thường trong quân
y và trị liệu phục hồi sau đó. Tuy nhiên,
về mặt tài chính, các cuộc chiến tranh trong
thế kỷ XXI của Mỹ có giá gần gấp 2,5
lần so với sự tham chiến tại Việt Nam.
Nhưng vấn đề các lỗi lầm do Lansdale
nhận ra được tiếp tục lập lại,
thậm chí tệ hại nhiều hơn nửa.
Chẳng hạn như sau khi Saddam thất thủ, Paul
Bremer, Phối hợp viên cho Liên minh Lâm thời Hoa
Kỳ ở Iraq đă phân hoá các lực lượng vũ
trang Iraq một cách kiêu ngạo và cấm đoán các thành
viên của Đảng Baath trong cơ quan dân sự. Do
đó, Iraq rơi vào cuộc nội chiến trong hai tông
phái Shia và Sunni, Iran nổi lên như là một lănh chúa
địa phương của Iraq và thành viên của
một số nhà lănh đạo quân sự thuộc
Đảng Baath bị lật đổ đă tiếp
tục giúp đỡ thành lập Nhà nước
Hồi giáo (ISIS).
Về phần ḿnh, Boot cho rằng: “Một trong
những thất bại nặng nề của chính sách
đối ngoại của Mỹ sau ngày 11/9 là không có
khả năng đối phó thích ứng với
Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai và Thủ tướng
Iraq Nouri al-Maliki. Dù được chính quyền George W.
Bush thiết lập, cả hai đă phát triển hoàn toàn
xa lạ với Hoa Kỳ đến nỗi nhiều người
ở Washington đă coi họ là trở ngại chính cho
thành công của Mỹ.
Thất bại ở Afghanistan gây hoang mang đặc
biệt. Gần hai thập niên sau cuộc xâm lược
của Hoa Kỳ, vẫn c̣n 14.000 quân nhân Hoa Kỳ
đóng quân ở đó. Trong khi Tổng thống Mỹ
Donald Trump đă hứa sẽ đưa họ hồi hương,
chính quyền Mỹ cũng đang chuẩn bị trao
một vùng lănh thổ đáng kể cho phe Taliban,
họ đang hoạt động ở khoảng 70% trong
đất nước, mặc dù có vũ khí kém hơn.
Thời hậu hậu cảnh
Việt Nam
Về sự thất vọng của Mỹ ở
Afghanistan và Trung Đông sẽ có ư nghĩa ǵ cho tương
lai là không có ǵ để nói. Cựu Ngoại trưởng
Hoa Kỳ Madeleine Albright từng mô tả Hoa Kỳ là
quốc gia cần thiết trên thế giới. Điều
này sẽ c̣n tiếp tục?
Chủ thuyết cô lập luôn luôn là gánh nặng gây
ra định kỳ cho nền chính trị Mỹ. Sau
cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo trên
toàn cầu của Tổng thống Bush, Obama đă
thực hiện một phương sách dè dặt hơn
đối với các cuộc phiêu lưu ra nước
ngoài. Như một cố vấn của Obama đă
đặt vấn đề một cách nổi
tiếng, cách của chính quyền ở Libya sau Mùa Xuân
Ả Rập là một cuộc diển tập theo cách
chỉ đạo từ phía sau. Hiện nay, đối
với việc hoạch định chính sách đối
ngoại, Tổng thống Trump đă đưa ra
một cách thuần túy dựa trên tinh thần giao
dịch thương mại, mà hiển nhiên là nhường
quyền kiểm soát Trung Đông cho Nga, Thổ Nhĩ
Kỳ và Iran.
Ngày nay, các cuộc xung đột hầu như không tương
đồng với chiến tranh Việt Nam. Những người
lính Mỹ ở Việt Nam là những người
đă bị động viên quân dịch theo luật
định; những đơn vị quân đội
ở Afghanistan và Iraq do nhập ngũ do tự nguyện
và thường được hưởng sự
hỗ trợ của cộng luận Mỹ. Nhưng
sự hỗ trợ đó là cho công vụ của
họ, không phải cho chính các cuộc chiến này.
Thực ra, nhưng cuộc thăm ḍ công luận
gần đây cho thấy là hiện nay phần lớn
người Mỹ ủng hộ việc rút hoàn toàn quân
đội Mỹ ra khỏi Afghanistan. Khi các cuộc
chiến của Mỹ ở hải ngoại trở nên
không c̣n được yêu chuộng ở trong nước,
các cuộc chiền phải được kết thúc,
ngay cả khi điều đó có nghĩa là thừa
nhận thất bại. Đó là bài học c̣n lại
của Việt Nam.
_____
Sách tham khảo:
– Max Hastings, Vietnam: An Epic Tragedy, 1945-1975, Harper, 2018.
– Max Boot, The Road Not Taken: Edward Lansdale and the American Tragedy
in Vietnam, Liveright, 2018.
– Lien-Hang T. Nguyen, Hanoi’s War: An International History of the War
for Peace in Vietnam, University of North Carolina Press, 2016 (Paperback).
Nguyên tác: The Living Lessons of Vietnam
John Andrews: Cựu Biên tập viên và Phóng viên nước
ngoài của The Economist, tác giả của The World in
Conflict: Understanding the World’s Troublespots. Tựa đề
bản dịch là của người dịch..
|