TRÁCH
NHIỆM MẤT NƯỚC… Vũ Linh |
Đúng
ngày thứ bẩy 30/4 này là ngày tang thương
của đất nước 47 năm trước. Tuần
này, chúng ta bàn qua phần hai của bài nhận định
về vai tṛ và trách nhiệm của các tổng
thống Mỹ trong việc mất miền Nam VN vào tay
VC. Ta đă bàn qua TT Kennedy tuần rồi. Ba
tổng thống Johnson, Nixon, và Ford sẽ được
bàn qua trong phần này. Cũng
như tuần rồi, xin có lời phi lộ.Bài
này đă được đăng trên DĐTC cách
đây đúng 3 năm, tháng 4/2019, nhưng xin được
đăng lại với chỉnh sửa, để không
quên ngày … sâu bọ lên làm người. Đây là giai
đoạn chiến tranh VN lên cao điểm, rồi
đi đến kết cuộc bi thảm 30/4. TT
Johnson. Dân Chủ 1963 – 1968 TT
Kennedy bất ngờ bị ám sát chết ba tuần sau
khi TT Diệm bị giết. Nhiều người
gọi là ‘quả báo’. TT Johnson lên thay thế,
một năm sau ông ra tranh cử và đắc cử, làm
tổng thống chính danh chứ không c̣n là ‘tổng
thống ngáp’ sau khi TT Kennedy chết, nhưng 4 năm
sau đó, quyết định không ra tranh cử
nữa. TT
Johnson,
‘cao bồi’ Texas thứ thiệt, chủ trương
cứng rắn hơn TT Kennedy. Ngay từ đầu, ông
hậu thuẫn TT Diệm, phản đối mọi
đề nghị đảo chánh, chống ngay cả
việc đẩy cố vấn Nhu ra ngoài ṿng quyền
lực. Ngay sau khi nhậm chức, ông đă muốn can
dự mạnh, nhưng v́ phải ra tranh cử cuối
năm 1964, nên phải dè dặt, tuyên bố sẽ “không cho thanh niên Mỹ chết trong đồng
ruộng Á Châu” và đả kích mạnh thái
độ ‘diều hâu’ cực đoan của ứng
cử viên CH Barry Goldwater. Sau
khi đắc cử, ông mau mắn lật ngược
chính sách, can thiệp mạnh vào nam VN, nhất là sau khi
t́nh h́nh VN suy xụp mau chóng qua các ‘chỉnh lư’ không
ngừng của các tướng lănh. Trong
thời gian đầu, ông được hậu
thuẫn của đảng DC khi đó nắm đa
số tại cả hạ viện lẫn thượng
viện. Đảng CH diều hâu cũng hậu
thuẫn tuy họ đ̣i hỏi những biện pháp
can thiệp c̣n mạnh hơn nữa. Quốc hội
biểu quyết cho TT Johnson toàn quyền đánh BV sau
vụ tàu Maddox bị tàu VC bắn, qua Nghị Quyết
Tonkin –Tonkin Resolution- chỉ có đúng 2 phiếu
chống so với 98 phiếu thuận tại thượng
viện, với 0 phiếu chống và 416 phiếu
thuận tại hạ viện. Mở màn cho các
chiến dịch dội bom BV kéo dài qua tới Hiệp
Định Paris. Cái
nhức răng cho TT Johnson là ông là người có khuynh
hướng cấp tiến nặng, có tham vọng
lớn muốn thay đổi xă hội, tung ra các chương
tŕnh cấp tiến để thực hiện cái mà ông
gọi là Great Society, nhưng kẹt chiến tranh VN,
vừa tốn tiền quá mức, vừa gây phân hóa
lớn trong chính trường cũng như trong dư
luận quần chúng, là những cản trở vĩ
đại cho giấc mộng Great Society. Sau
vài năm đầu thậm thụt vừa đánh
vừa run, leo thang từng bước, đưa đến
việc hơn nửa triệu quân Mỹ tham gia cuộc
chiến mà vẫn không thấy ‘ánh sáng cuối
đường hầm’, ông t́m cách ‘tháo chạy’,
nhất là sau biến cố Tết Mậu Thân, nhưng
không t́m ra lối thoát. Ở
đây, phải mở ngoặc nói thêm về biến
cố Tết Mậu Thân. Đây là biến cố ‘đổi
đời’ đă thay đổi cuộc diện
chiến tranh VN. VC trước nguy cơ thất bại
trọn vẹn, đâm đầu húc xả láng, dùng toàn
thể lực lượng của MTGP, đánh kiểu
thí mạng cùi, trong hy vọng tự tuyên truyền là
sẽ được dân miền Nam hậu thuẫn,
nổi dậy ủng hộ khắp nơi, đưa
đến thành công. Kết cuộc đă là một
đại họa lớn nhất khi gần như toàn
thể lực lượng quân sự của MTGP bị
tiêu diệt, trong khi dân bỏ phiếu bằng chân,
chạy trốn chúng chứ chẳng có một nơi nào
nổi lên tiếp tay chúng. Một cách thực tế,
Tết Mậu Thân đă tiêu diệt trọn vẹn
MTGP. Bằng chứng cụ thể nhất là sau đó,
lực lượng chính quy của BV đă phải công
khai tham chiến trong tất cả các đụng độ
lớn, cho tới trận 30/4. VC tức tối trả
thù, giết cả ngàn thường dân Huế v́
tội đă không nổi dậy giúp đảng. Nhưng
cái oan nghiệt cho số phận miền Nam là ở
Mỹ, đảng DC và đồng minh truyền thông thân
cộng đă hóa phép, biến thảm bại của VC
thành một chiến thắng vĩ đại và oai hùng
nhất của VC, đưa đến kết luận là
Mỹ đại bại, chỉ c̣n đường tháo
chạy thôi. TT Johnson bỏ cuộc, không ra tranh cử,
t́m đường rút. Truyền thông Mỹ giúp VC chôn
cho sâu thêm cả ngàn thường dân bị VC giết
oan ở Huế, không loan tin, thế giới khỏi
biết. Những
cố gắng mở đường nói chuyện
với VC của TT Johnson qua nhiều trung gian (Pháp,
Ấn Độ, Hung Gia Lợi,…) đều thất
bại. Ngay cả sau khi Mỹ và VC đồng ư
gặp nhau tại Paris tháng 5/1968 sau khi VC thảm bại
trong vụ tổng công kích Mậu Thân, hai bên cũng
chẳng đi đến một thỏa thuận nào,
tranh căi cả mấy tháng trời về những
chuyện vớ vẩn như h́nh thù cái bàn họp.
Thật ra, VC cố t́nh tŕ hoăn để đợi
bầu cử tổng thống Mỹ cuối 1968. Khi hai
bên chuẩn bị nói chuyện cũng là lúc TT Johnson công
khai tuyên bố ông không ra tranh cử lại, trong khi các
ứng cử viên tổng thống của đảng
DC, trong đó có các thượng nghị sĩ Eugene
McCarthy, George McGovern và Robert Kennedy, đều công khai
muốn Mỹ rút khỏi VN càng sớm càng tốt. TT
Johnson là người mang hơn nửa triệu quân
Mỹ vào VN, ‘chiếm’ quyền trực tiếp điều
hành cuộc chiến từ quân sự đến chính
trị, với những hậu quả tốt cũng như
xấu. Tốt v́ hiển nhiên đă cứu miền Nam
khỏi một đại bại ngay từ những năm
65-66 khi quân lực VNCH gần như tan hàng v́ những
chỉnh lư của các tướng, chỉ lo đánh
lẫn nhau chứ không lo đánh VC nữa. Xấu v́
đúng như TT Eisenhower và TT Diệm đă lo ngại,
việc Mỹ can thiệp trực tiếp quá mạnh,
đă khiến VNCH mất chính nghiă, tặng cho VC
một vũ khí tuyên truyền vô giá là “lính da
trắng Mỹ chỉ đến thay thế lính da
trắng Pháp thôi”. Đáng
tiếc không kém, chính quyền Mỹ cũng phạm sai
lầm đủ kiểu, đưa ra hết chiến lược
sai lầm này đến chính sách trật bét nọ, luôn
đi theo VC nhưng chậm hơn một bước.
Ban đầu, Mỹ chờ đợi một cuộc
chiến quy ước lớn kiểu Bắc Hàn xâm lăng
Nam Hàn, th́ VC chơi du kích chiến. Khi Mỹ chuyển
qua chống du kích trong rừng th́ VC tổng công kích thành
phố. Khi Mỹ lo bảo vệ thành phố và lùng du
kích VC trong rừng núi, th́ VC xua thiết giáp tràn qua biên
giới. Sau
khi cuộc chiến chấm dứt với sự
thảm bại của Mỹ và VNCH, nhiều người
Mỹ đă ồn ào xỉa tay đổ thừa
tại quân đội VNCH, “tướng dốt lính hèn”,…
Sự thật đây đúng là cuộc chiến
của Mỹ, chẳng những với nửa triệu
lính Mỹ tham chiến, mà ngay cả trong quân lực
VNCH, các cố vấn Mỹ cũng đích thực là
những người nắm quyền. Tuy chỉ là
cố vấn, nhưng nếu các tư lệnh VN không
nghe lời th́ cố vấn không gọi không quân và pháo
binh Mỹ yểm trợ th́ là tai họa. Các sử gia
chỉ cần nh́n vào những trận đánh lớn
KHÔNG có cố vấn Mỹ như tại An Lộc, Xuân
Lộc,… cũng như con số 250.000 lính VNCH hy sinh (so
với 58.000 lính Mỹ chết) th́ có thể lượng
giá đúng mức hơn quân lực VNCH. Xét
cho cùng, Mỹ với hơn nửa triệu lính,
tốn gần 850 tỷ đô trong hơn cả chục
năm trời mà không thắng nổi, tại sao
lại là lỗi của VNCH khi chỉ cần 700
triệu để cứu Sàig̣n trong tháng 4/75 cũng không
có? Mỹ
thua v́ không hiểu mà cũng chẳng bao giờ
muốn t́m hiểu những yếu tố tâm lư chính
trị đặc thù của VC nói riêng và dân VN nói
chung, mà chỉ trông cậy vào hỏa lực. Lư
luận của người Mỹ: Mỹ đă diệt
tan cả Đức lẫn Nhật, luôn cả Trung
Cộng tại Hàn Quốc, mà đâu có cần t́m
hiểu tâm lư của Hitler, Hirohito hay Mao ǵ đâu, sao bây
giờ phải thắc mắc chuyện Lê Duẩn hay
HCM hay nông dân Việt nghĩ ǵ? Ngay cả các tướng
tá, sĩ quan, binh lính và cả thường dân VNCH nghĩ
ǵ, Mỹ cũng chẳng cần biết. Cái
sai lầm của lập luận này là Đức,
Nhật và Trung Cộng đều dùng hỏa lực
của họ chống lại hỏa lực của
Mỹ, và họ thua; trong khi VC không dùng hỏa lực mà
dùng chiến tranh gặm nhấm. Vũ khí chính của
VC là lấy ḷng dân bằng đủ cách, từ
dụ dỗ ngon ngọt đến lừa gạt
xảo trá nhất, đến khủng bố và
giết thẳng tay, tùy đối tượng. Với
mục đích kéo dài cuộc chiến, gặm nhấm
vào tính kiên nhẫn của dân Mỹ. Trong khi HCM nói
chuyện “100 năm trồng người” th́ người
Mỹ chỉ nh́n thấy 4 năm nhiệm kỳ
tổng thống. VC khi đó đă hiểu chính trị
Mỹ rất rơ. Hơn xa cấp lănh đạo VNCH. Dĩ
nhiên là VC cũng phải dùng hỏa lực, nhưng
chỉ để ‘dứt điểm khi thời cơ
chín mùi’. Ở đây ta thấy ngay cái sai lầm
của cấp lănh đạo VC, quá chủ quan, quá tin tưởng
vào tuyên truyền của chính ḿnh, tưởng ‘cơ
hội dứt điểm’ đă tới với
Mậu Thân 68 và Mùa Hè 72, để rồi cả hai
lần đều ôm đầu máu, chết lính như
rạ. ‘Cơ hội dứt điểm’ chỉ
thực sự đến với VC năm 75 khi quốc
hội DC Mỹ đă cắt đứt cuống
rốn cung cấp súng đạn và xăng nhớt cho
QLVNCH. Chính
sách của TT Johnson tiêu biểu cho chính sách đối
ngoại cũng như quân sự của các tổng
thống của đảng DC: manh tính vú em muốn can
dự nhưng lại nhát tay vừa đánh vừa run.
Điển h́nh là khi biết tin có 300.000 lính TC qua
giữ BV để BV gửi cả chục sư đoàn
vào nam, TT Johnson đă tiếp tay VC dấu nhẹm tin này
v́ sợ đụng độ lớn. TT
Nixon. Cộng Ḥa 1969 – 1974 TT
Johnson không ra tranh cử lại, đảng DC đưa
PTT Hubert Humphrey ra chống lại cựu PTT Richard Nixon. Ông
Nixon thắng. Ông
Nixon khi ra tranh cử bảo đảm ông đă có “kế hoạch bí
mật” để chấm dứt chiến
tranh VN. Sau này, kế hoạch bí mật đó được
bật mí, đó là sách lược giải quyết
cuộc chiến VN bằng cách nói chuyện thẳng
với các đàn anh đang đỡ đầu VC là
Liên Xô và Trung Cộng, trao đổi quyền lợi
dựa trên tính toán địa chính trị toàn cầu
của các đại cường, trong khi chỉ điều
đ́nh với VC về chi tiết đ́nh chiến, rút
quân, và trao trả tù binh. Ngay cả vấn đề
thể chế chính trị then chốt cho miền Nam,
Nixon cũng phủi tay để cho ‘các bên VN’ tranh căi. TT
Nixon nh́n cuộc chiến VN dưới nhiều khiá
cạnh: –
Cuộc chiến VN là một vi khuẩn vĩ đại
gây phân hóa không hàn gắn được cả xă
hội và chính trị Mỹ, làm tê liệt tất
cả mọi chương tŕnh xă hội nội bộ
hay ngoại giao của Mỹ. Chưa kể tốn kém
quá mức về tiền bạc và nhất là sinh
mạng thanh niên Mỹ. Mà lại không thấy giải
pháp nào khi khối CS quốc tế vẫn kiên tŕ giúp
VC và VC nghiến răng thí mạng cùi tới cùng. Trong
chế độ dân chủ của Mỹ, tổng
thống không có quyền hạn vô tận như các tay
lănh đạo độc tài CS. –
Ông bị chi phối bởi nhiều yếu
tố: quốc hội khóa tay, chính ông cũng muốn
chấm dứt chiến tranh, nhưng lại không
muốn thua hay tháo chạy mất uy tín cho Mỹ. Ông
cho rằng việc cần phải làm là một mặt
củng cố quân lực VNCH qua sách lược gọi
là ‘Việt Nam hóa chiến tranh’,
mặt khác điều đ́nh với Liên Xô và TC
chấm dứt hay ít nhất giảm mạnh viện
trợ quân sự của họ cho VC, như vậy
sẽ giúp cho VNCH một cơ hội đánh nhau ngang
tay với VC, và trong cuộc chiến ‘ngang tay’ đó,
TT Nixon tin tưởng VNCH sẽ chỉ thắng hay
huề, không thể thua. Điều ông Nixon không ư
thức được là nội cái tên ‘Việt Nam hóa
chiến tranh’ đă là cái tát vào mặt toàn thể
quân dân miền Nam, làm như thể trước đó
chỉ là chiến tranh của Mỹ trong khi dân quân
Việt ngồi bên lề đường coi hát. Cả
chục vạn quân nhân VNCH chết mà Nixon đă không
nh́n thấy. Các cán bộ tuyên truyền VC rung đùi cười
khi nghe Mỹ nói “Việt Nam hóa chiến tranh”. –
Nhưng quan trọng hơn nữa trong cái viễn
kiến quốc tế của TT Nixon, cuộc chiến VN
là một chất keo kết nối khối CS, nhất là
Nga và Tàu, mà nếu Mỹ chấm dứt can thiệp
ở VN th́ chất keo sẽ tan và mấy ông CS sẽ túm
đầu đánh nhau túi bụi. Khối CS quốc
tế đang bị chi phối bởi việc dành
ảnh hưởng giữa hai ông anh lớn, Mỹ
cần phải triệt để khai thác phân hóa đó
để tạo ra thế chân vạc, ‘tam quốc tân
thời’, chứ hai ông CS lớn đó ngồi với
nhau th́ Mỹ khó chống đỡ. TT Nixon đă có
viễn kiến xa hơn tất cả mọi người.
Sau khi chiến tranh VN chấm dứt, quả nhiên quan
hệ Liên Xô – Trung Cộng đổ vỡ hoàn toàn,
không hàn gắn được. Sau đó, ngay cả TC cũng
đánh VC trong khi VC đánh Căm-Pu-Chia. Chuyện ‘đồng
chí môi hở răng lạnh’ biến thành răng
cắn cho đứt môi. Điều
ông hy vọng là sẽ có thể điều đ́nh trên
đầu VC, tức là điều đ́nh thẳng
với Liên Xô và TC để hai xứ đàn anh này ép
VC chấp nhận một giải pháp nào đó mà
sẽ không có bên nào thắng bên nào thua, chấm
dứt chiến tranh VN theo mô thức Triều Tiên, duy tŕ
t́nh trạng hai miền trong khi chờ đợi
thống nhất có thể cả chục năm sau. TT
Nixon sai lầm và thất bại v́ ông đă không lường
trước sự chống đối quá mạnh
của đối lập DC và nhất là không tính
Watergate. Đảng
DC thất bại với TT Johnson nhất quyết không
cho ông CH Nixon thành công. Trong suốt thời gian nắm
quyền, ông Nixon đă gặp phải chống đối
tuyệt đối của phe đối lập DC và
TTDC thiên tả suốt ngày bôi bác miền Nam và ca
tụng VC, chưa kể hàng vạn người
xuống đường biểu t́nh liên tục cả
mấy năm trời. Chỉ trong 4 năm
nhiệm kỳ đầu, TT Nixon đă bị quốc
hội do DC nắm đa số biểu quyết hơn
80 lần, trung b́nh 3 tuần một lần trong suốt
bốn năm liền, đ̣i TT Nixon chấm dứt can
dự vào cuộc chiến. (https://prospect.org/article/congress-helped-end-vietnam-war/) Tháng
Chạp 1969, thượng viện DC thông qua luật
Church-Cooper (thượng nghị sĩ DC Frank Church
của Idaho, và CH John Cooper của Kentucky) cấm
triệt mọi hoạt động quân sự -hành quân
hay dội bom- trên lănh thổ Lào. Đường ṃn
Hồ Chí Minh được các nghị sĩ DC Mỹ
bảo đảm an toàn tuyệt đối cho VC. Tháng
6, 1970, Thượng Viện DC thông qua tu chính Church-Cooper
cấm chính quyền Nixon không được chi một
đồng nào cho cuộc chiến tại Căm-Pu-Chia,
cấm gửi lính qua hay đánh bom xứ này luôn. Đến phiên các mật khu VC trên đất Căm-Pu-Chia
được thượng viện DC Mỹ bảo
đảm an toàn. VC mau mắn di chuyển
bộ chỉ huy từ “Cục R” ở Nam VN qua Căm–Pu-Chia. Năm
1973, lấy cớ Hiệp Định Paris đă kư, TNS
Church lại cho thông qua luật mới cắt
hết mọi viện trợ quân sự cho ba nước
Việt-Miên-Lào. QLVNCH hết nhận được
viện trợ quân sự. Cũng năm 1973, quốc
hội thông qua luật War Power Act, Quyền Tham Chiến, bắt
tổng thống phải xin phép quốc hội nếu
tham gia bất cứ cuộc chiến nào quá ba tháng. V́
Hiệp Định Paris đă chấm dứt chiến
tranh VN, nếu Mỹ trở lại VN th́ sẽ coi như
mở đầu một cuộc chiến mới,
phải có sự chấp thuận của quốc
hội do DC nắm đa số tại cả hai
viện. Cả hai lần, thượng
nghị sĩ Joe Biden mới đắc cử cuối năm
1972, đều bỏ phiếu chống việc giúp VNCH
đánh VC. Năm
1974, VNCH bất lực nh́n VC vi phạm Hiệp Định
Paris, chuyển quân và súng đạn ào ạt vào Nam VN
qua đường ṃn bây giờ đă thành xa lộ
HCM. TT Nixon muốn đánh bom, nhưng bị vướng
x́nh lầy Watergate, và không đủ hậu thuẫn chính
trị để vượt qua luật Church-Cooper. TT
Nixon cố gắng t́m một giải pháp để VNCH
có thể tồn tại lâu dài, qua những cuộc
dội bom Căm-Pu-Chia và nhất là những cuộc
dội bom trên Hà Nội mùa Giáng Sinh 72, nhưng mỗi
lần ông ra tay mạnh là một lần bị khối
DC ra luật mới trói tay thêm. Trong khung cảnh
‘nội chiến’ với đối lập DC đó,
TT Nixon lại dính vào vụ Watergate, dĩ nhiên bị
TTDC và DC triệt để khai thác, cuối cùng ép ông
phải từ chức. Sách
lược gọi là ‘rút ra trong danh dự’ của TT
Nixon được dân Mỹ ủng hộ triệt
để, đưa đến chiến thắng
lịch sử của Nixon năm 1972, hạ McGovern tàn
tệ (Nixon: 520 phiếu cử tri đoàn; McGovern: 17
phiếu, chỉ thắng đúng một tiểu bang là
Massachusetts, và District of Columbia tức là vùng thủ đô
Washington). Dù dân Mỹ muốn chấm dứt việc
can dự vào Nam VN, nhưng họ cũng không chấp
nhận McGovern khi ông này chủ trương rút ngay
lập tức, chỉ với một điều
kiện duy nhất là VC trả hết tù binh Mỹ, sau
đó, tất cả lực lượng quân sự
Mỹ sẽ rút hết trong ṿng ba tháng, bất cần
biết số phận Nam VN. Câu
hỏi không bao giờ có câu trả lời: nếu TT
Nixon không bị quốc hội DC chặt chân trói tay và
dính lầy Watergate th́ số phận VN sẽ ra sao? Ông
sẽ đối phó thế nào khi thấy VC chuyển
quân giữa ban ngày trên xa lộ HCM? Ông sẽ phản
ứng ra sao khi VC xé Hiệp Định Paris, tung
thiết giáp chiếm Nam VN năm 75? Chính xác hơn,
phải hỏi nếu Nixon c̣n, với toàn quyền
quyết định, th́ VC có dám làm những chuyện
trên không? Nhiều
người VN trách cứ TT Nixon và nhất là cố
vấn Kissinger đă gian trá, lừa gạt VNCH, bán
đứng VNCH cho Trung Cộng. Luận
cứ này có đúng nhưng cũng sai. Đúng ở
điểm TT Nixon muốn t́m giải pháp rút khỏi VN
và nhiều khi đă không chân thật với TT
Thiệu; v́ nhu cầu bảo vệ quyền lợi
Mỹ cũng như thực hiện sách lược
‘tam quốc’ của ông, trong khi ông lại không
muốn TT Thiệu công khai chống v́ ông sợ mang
tiếng phản đồng minh, do đó đă che
giấu TT Thiệu nhiều chuyện. Không đúng
ở điểm TT Nixon muốn bán đứng VNCH cho TC
với bất cứ giá nào. Luận cứ TT Nixon bán
đứng miền Nam thật ra là do phe DC tung ra để
chạy tội sau khi mất miền Nam, giấu nhẹm
tất cả những biểu quyết của khối
DC tại quốc hội đă khóa chặt tay TT Nixon.
Nếu quốc hội đă ra luật cắt mọi
viện trợ quân sự, cấm Mỹ dội bom trên
cả bốn vùng, nam và bắc VN, Lào và Căm-Pu-Chia,
lột quyền tham chiến của tổng thống th́
cho dù TT Nixon muốn giữ miền Nam th́ ông có cách nào?
Làm sao có thể nói TT Nixon là người chịu trách
nhiệm về việc bỏ/mất VNCH? Điều
ngạc nhiên phải nói là ông đă cứng cựa,
cầm cự dai dẳng được hơn 4 năm,
vớt vát đến cùng, trước khi kư Hiệp
Định Paris. TT
Nixon bị phe đối lập DC đánh đến
độ không c̣n giữ được cái ghế
của ông, làm sao giữ được cả miền
Nam VN? TT
Ford. Cộng Ḥa 1974 – 1976 TT
Ford nhậm
chức sau khi TT Nixon từ chức. Ông thừa hưởng
một nước Mỹ phân hóa nặng chưa
từng thấy và phải tập trung mọi nỗ
lực để cứu con bệnh Mỹ, trong khi uy tín
ông không có bao nhiêu v́ chỉ là tổng thống ‘ngáp’
do Nixon chỉ định chứ không ai bầu (tuy ông có
được quốc hội phê chuẩn). Trong
chuyện VN, ông hoàn toàn bị trói tay bởi Hiệp
Định Paris cũng như các luật Church-Cooper. Khi
VC rầm rộ chiếm miền Trung, ào ạt nam
tiến, TT Ford t́m mọi cách cứu giúp. 1.
Ông yêu cầu quốc hội cho lính Mỹ trở
lại viện cớ không phải để cứu nam
VN, mà là để bảo vệ lính và dân Mỹ c̣n
đang ở VN. Bị quốc hội DC bác bỏ. 2.
Ông cũng yêu cầu quốc hội cho tháo khoán
khẩn cấp 720 triệu tiền viện trợ quân
sự đă được phê chuẩn cho tài khoá 75 nhưng
chưa tháo khoán. Cũng bị quốc
hội DC bác bỏ. Nhưng TT Ford vẫn
bất chấp, trong những ngày cuối, chở hàng
loạt vũ khí, đại bác, súng đạn qua cho
VNCH, lấy cớ thay thế hao ṃn mất mát, trên nguyên
tắc được Hiệp Định Paris cho phép. 3.
Giữa tháng Tư 75, khi VC gơ cửa Sàig̣n, quốc hội DC cũng bác luôn yêu
cầu của TT Ford xin viện trợ khẩn cấp
300 triệu để tăng cường bảo vệ
thủ đô Sàig̣n và phần c̣n lại của
miền Nam trong khi chờ đợi (hy vọng?) các bên
điều đ́nh lại. 4.
Cận ngày mất nước khi không c̣n hy vọng ǵ,
TT Ford xin chuyển số 300 triệu này qua một
quỹ đặc biệt giúp chuyên chở và định
cư tại Mỹ khoảng 200.000 quân cán chính VNCH mà
ông cho rằng chắc chắn sẽ bị VC giết
sau khi họ chiến thắng. Đề nghị này cũng
bị quốc hội DC bác. Khi
đó, tân thượng nghị sĩ
Joe Biden đă biểu quyết chống tất cả 4 yêu
cầu khẩn cấp trên của TT Ford, không chừa
một cái nào. Cho
đến giờ phút này, kẻ này vẫn không
thể hiểu tại sao trong cộng đồng
gọi là tị nạn, chống cộng chết
bỏ, năm nào cũng tổ chức tưởng
niệm ngày Quốc Hận tang thương, mà lại có
không ít dân ủng hộ Biden. Một là họ không
biết họ đang làm ǵ, hai là họ giả
dối, chống cộng cuội. Thắc
mắc này chắc sẽ không bao giờ có câu trả
lời v́ các ông bà này chỉ biết… ‘làm thinh’ thôi. KẾT Nh́n
vào thực tế lịch sử, VN từ thời
Quốc Gia VN đến Đệ Nhất rồi Đệ
Nhị Cộng Ḥa, cũng kể luôn cả chế
độ VC tại miền Bắc, trước sau
vẫn chỉ là quân chốt trên bàn cờ chính
trị thế giới. Quân chốt của Mỹ và quân
chốt của khối CS quốc tế, trong một
cuộc chiến ‘ủy nhiệm’ không hơn không kém.
Việc đánh hay giúp VN –QG hay CS- luôn nằm trong
những tính toán lớn của các đại cường.
Cấp lănh đạo VN từ CS đến QG, có
tiếng nói rất nhỏ và quyền hành c̣n nhỏ hơn
nữa. Dù
vậy, cũng không thể nói cấp lănh đạo VN
hoàn toàn không có trách nhiệm. Về cấp lănh đạo
CSVN, ta khỏi cần bàn cho mất thời giờ khi chính
miệng Lê Duẩn xác nhận chúng đánh miền Nam
v́ Liên Xô và Trung Cộng. Về
phiá quốc gia, trách nhiệm không nhỏ. Từ
Bảo Đại ăn chơi trác táng bên Pháp bất
cần việc nước, tới TT Diệm xây
dựng nên một quốc gia thịnh vượng và
ổn định, nhưng sau đó phạm nhiều sai
lầm nghiêm trọng, trở nên độc tài, tới
các tướng lănh đảo chánh trên danh nghĩa
để đánh VC hữu hiệu hơn, nhưng
rồi v́ tham vọng cá nhân liên tục chỉnh lư
lẫn nhau, bán cái việc đánh VC cho Mỹ, các sư
săi mang bàn thờ xuống đường ‘chống
chiến tranh’, linh mục ‘chống tham nhũng’, sinh
viên ‘chống bắt lính’, kư giả ‘đi ăn mày’,
nhân sĩ ‘đ̣i quyền sống’, các chính khách
thời cơ ‘cẳng giữa’, những cuộc
triệt thoái hỗn độn qua những quân lệnh
bất nhất,… cuối cùng đưa đến
mất nước, đó chính là những phần trách
nhiệm lớn của người Việt quốc gia,
không phải là lỗi của Johnson hay Nixon hay Kissinger ǵ
hết. Lịch
sử VNCH sẽ ghi nhận ta có 4 ông tổng thống:
một ông bị giết, hai ông đào nhiệm và
từ chức, một ông hấp tấp đầu hàng
khi giặc gơ cửa. Một lịch sử không mấy
hănh diện. Đáng buồn! Những
sai lầm đó đưa đến sự hy sinh cao
cả nhưng oan uổng của một số tướng
lănh oai hùng tuẫn tiết v́ nước và những sĩ
quan và lính can trường chiến đấu đến
cùng dù biết vô vọng. Lập
luận “Mỹ tháo chạy” hiển nhiên không sai
lắm, nhưng dù sao cũng vẫn là cách các quan
chức miền Nam xiả tay đổ thừa mà không
dám nhận phần trách nhiệm của chính ḿnh. Nhiều
chính khách và tướng tá có trách nhiệm lớn
trong cuộc chiến sau này đă viết sách, hồi kư,
hay nói chuyện. Hầu hết đều khoe ḿnh đúng
và tài giỏi, để đổ thừa tất
cả sai lầm hay trách nhiệm lên đầu người
khác. Điều đáng buồn là h́nh như trong
những vị này, đă không có một vị nào
nhận sai lầm của chính ḿnh, công khai có một
lời xin lỗi người dân, nhất là xin lỗi
người lính của họ đă bị họ
bỏ lại, sống chết không cần biết,
từ lính chủ lực tới địa phương
quân, nghĩa quân, nhân dân tự vệ, và nhất là
vợ con của lính, là những nạn nhân thật
sự khốn khổ nhất trong cuộc chiến bi
thảm kéo dài 30 năm. ĐỌC
THÊM Một
lần nữa, xin nhắc lại tài liệu về
chiến tranh VN đúng là vô số kể. ĐDTC
chỉ có thể giới thiệu vài tài liệu có tính
bao quát nhất thôi. TT
Johnson và Chiến Tranh VN – Đại Học Virginia: https://prde.upress.virginia.edu/content/Vietnam TT
Nixon và Chiến Tranh VN – Facts and Details: http://factsanddetails.com/southeast-asia/Vietnam/sub5_9b/entry-3364.html Chấm
Dứt Chiến Tranh Việt Nam – Historian: https://history.state.gov/milestones/1969-1976/ending-vietnam Việt
Nam Hóa – History.com: https://www.history.com/topics/vietnam-war/vietnamization Vũ Linh, 30/4/2o22 |