Kể
từ Cách Mạng Hồi Giáo Iran năm 1979, Teheran
được nhắc đến nhiều trên
truyền thông. Tuy nhiên, gần đây, vụ Mỹ dùng
máy bay không người lái ám sát tướng Iran Ghassem
Soleimani ở Iraq và việc Iran đáp trả bằng cách
tấn công vào các căn cứ quân sự của
Mỹ tại Ain Al-Assad và Erbil đă làm dấy lên lo
ngại về nguy cơ xảy ra điều tồi
tệ nhất : leo thang căng thẳng bùng lên trong khu
vực và gây hậu quả trên thế giới.
Cuộc khủng hoảng trong quan hệ giữa Iran và
Hoa Kỳ là một cơ hội để nh́n lại
quá khứ, t́m hiểu lại về mối quan hệ
đặc biệt thân thiết giữa Hoa Kỳ và Iran
trong giai đoạn 1830-1953. Trên thực tế, đúng
là kể từ năm 1979, sự thù địch sâu
đậm là một nét đặc trưng của
mối quan hệ Teheran - Washington, nhưng trước
đó, mối quan hệ hai nước không phải lúc
nào cũng xấu như vậy.
Trên đây là những nhận định của bà
Firouzeh Nahavandi, giám đốc Viện Xă hội học
thuộc đại học ULB - Université Libre de Bruxelles,
trong vài viết « Iran - Hoa Kỳ: T́nh bằng hữu
bị lăng quên » đăng trên trang mạng The
Conversation ngày 22/01/2020.
Thế kỷ XIX: Hoa Kỳ,
một người bạn phương xa và nhân từ
Vào thế kỷ XIX, mối quan hệ giữa hai nước
bắt đầu với những dấu hiệu
tốt lành. Iran, được gọi là Ba Tư cho
đến năm 1935, bị kẹt trong « tṛ chơi vĩ
đại » giữa Anh và Nga. Matxcơva và Luân Đôn
cạnh tranh để giành quyền kiểm soát đất
nước Ba Tư. Khi đó, Hoa Kỳ xuất hiện
như một cường quốc trung lập, không có
ư đồ thống trị của đế quốc. Lúc
đầu, người đứng đầu đế
chế Ba Tư, Amir Kabir, một nhà cải cách vĩ
đại, đă cố gắng t́m kiếm sự
ủng hộ của Hoa Kỳ để thiết
lập một hạm đội cho Iran (nhưng không thành
công). Tuy nhiên, vào năm 1856, một hiệp ước
thương mại và hữu nghị giữa hai
quốc gia đă được kư kết. Tiếp sau
đó, cơ quan ngoại giao đầu tiên của
Mỹ ở Tehran được mở vào năm 1883 và
Iran có cơ quan đại diện ở Washington vào năm
1888.
Thế nhưng, trong thế kỷ 19, bên cạnh
những nỗ lực ngoại giao, đáng lưu ư hơn
cả là sự hiện diện của các nhà truyền
giáo Mỹ : Họ đóng một vai tṛ lớn giúp Hoa
Kỳ có được thiện cảm của người
Iran trong một thời gian dài. Harrison Dwight và Eli Smith
được cho là những người Mỹ đầu
tiên đến Iran vào năm 1830 để chuẩn
bị cho các chuyến đi Iran của các nhà truyền
giáo Mỹ trong tương lai. Từ đó trở đi,
những nỗ lực cải đạo cho người
Iran Hồi giáo hệ phái Shia bắt đầu, tuy
rất thành công nhưng lại không được
đánh giá cao. Ngày nay, số người theo Kitô giáo
ở Iran được ước tính là chưa đến
100.000 người, nhưng con số này là 300.000 vào năm
1979, phần lớn là Chính thống giáo, có một
số người Công Giáo La Mă và Tin Lành, đặc
biệt là Phúc Âm và Giáo phái Anh.
Trái lại, sự hỗ trợ của người
Mỹ (các nhà truyền giáo, bác sĩ, giáo viên, nhà
sử học …) để cải thiện các điều
kiện chăm sóc sức khỏe, giáo dục hoặc văn
hóa, lại được đánh giá rất cao,
nhất là v́ là Mỹ không can thiệp vào công việc
nội bộ của Iran như Anh và Nga. Hoa Kỳ đă
tránh xa, không can dự vào cuộc cách mạng Hiến
pháp Iran 1905-1911. Trong bối cảnh đó, Howard
Baskerville (1885-1909) là một ngoại lệ đáng chú
ư. Ông đến Iran vào đầu thế kỷ 20
với tư cách là một nhà truyền giáo và tích
cực hỗ trợ các nhà cách mạng, cho đến
khi ông thiệt mạng. V́ thế, ông vẫn được
coi là một người hùng thực sự. Năm 1909,
hàng chục ngàn người Iran đă tham dự lễ
tang của ông ở Tabriz.
Những người Mỹ tham
gia hiện đại hóa Ba Tư
Cái nh́n tích cực của người Iran về Hoa
Kỳ đă khiến họ đề nghị Morgan
Schuster của Mỹ làm cố vấn tài chính cho công
cuộc hiện đại hóa tài chính của Iran vào năm
1911. Ông được bổ nhiệm lănh đạo ngân
khố của Ba Tư dưới triều đại
Kadjar. Sự tận tâm cống hiến của Schuster
trong công việc và ḷng trung thành của ông đă giúp
ông có được sự tôn kính của người
dân Ba Tư và nâng cao sự ngưỡng mộ mà dân
chúng nước này dành cho người Mỹ. Mặc dù
có thái độ miễn cưỡng đối với
Hồi giáo hệ phái Shia, nhưng người Mỹ
vẫn thiết lập mối quan hệ bằng hữu
với người Iran và mối quan hệ đôi bên
khi đó rất thân thiết. Tuy nhiên, Schuster sau này
buộc phải rời khỏi Iran dưới áp
lực của người Nga và người Anh, vốn
muốn bảo vệ ảnh hưởng của họ
tại Ba Tư.
Nhiều người Mỹ khác cũng có các hoạt
động đóng góp cho sự tiến bộ của
Ba Tư, chẳng hạn trường hợp của
Samuel Jordan hay Jane Doolittle, những người đóng góp
cho sự tiến bộ của giáo dục, hay như bác
sĩ Joseph Cochran (1855-1905) - người sinh ra, chết
đi và được chôn cất ở Iran - đă
đóng góp cho sự tiến bộ của y học
hiện đại của Ba Tư. C̣n Arthur Upham Pope
(1881-1969) là người đă dành cả cuộc đời
để t́m hiểu về văn hóa, nghệ thuật
và kiến trúc Ba Tư. Arthur Upham Pope cũng được
chôn cất tại Iran.
Thế kỷ XX: Chiều hướng
xấu đi trong các mối quan hệ
Trong Đệ Nhất Thế Chiến, người Iran
vẫn hướng về phía Hoa Kỳ để
được Washington hỗ trợ nhằm giữ thái
độ trung lập, cho dù không thành công. Câu trả
lời đồng ư của Hoa Kỳ, với việc thành
lập vào năm 1916 một ủy ban trợ giúp cho người
Iran, đă giúp Iran củng cố cách nh́n tích cực
của họ và khiến người Iran có nghĩ
rằng người Mỹ có thể là đối
trọng với các nước đế quốc có ư
đồ thống trị Iran, đặc biệt là Anh
Quốc. Về phần ḿnh, người Mỹ coi
trọng mối quan hệ tốt đẹp với Iran
và khuyến khích họ thoát khỏi sự chèn ép
của các thế lực đế quốc vào thời
đó.
Việc người Anh phát hiện các mỏ dầu
lửa ở miền nam Iran đă làm thay đổi
cuộc chơi. Hoa Kỳ bắt đầu quan tâm và
đầu tư vào khu vực, và cuối cùng tiến
đến cạnh tranh với người Anh. Không
những vậy, Washington c̣n không muốn có đối
thủ cạnh tranh ở Vịnh Ba Tư, nơi họ
đă thiết lập liên minh với Ả Rập Xê Út.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Iran vẫn bị
quân Đồng Minh xâm chiếm mặc dù Teheran tuyên
bố trung lập. Bất chấp nỗi oán giận
của người Iran trước sự hiện
diện của quân Đồng Minh, vai tṛ của bộ
trưởng toàn quyền Hoa Kỳ Louis G. Dreyfus và
vợ ông trong công tác hỗ trợ người nghèo,
hoạt động trợ giúp của họ tại các
khu ổ chuột và cuộc chiến chống lại
những căn bệnh phổ biến như bệnh
sốt phát ban vẫn giúp người Mỹ được
ḷng dân Iran ở một mức độ nào đó. Tuy
nhiên, thiện cảm này bắt đầu suy yếu
dần trong một bộ phận dân chúng Iran. Những
bài viết lăng mạ vua Iran Reza Shah đăng trên báo
chí Mỹ và vụ bắt giữ đáng tiếc
một vụ trưởng Iran ở Mỹ đă làm
hỏng quan hệ hai nước.
Vào năm 1941, việc Mỹ can dự vào chính trị
Iran, một việc hoàn toàn mới trong quan hệ
Iran-Mỹ, và cuối cùng là sự tham gia của Hoa
Kỳ vào năm 1953 để gạt bỏ thủ tướng
Mossadegh (chiến dịch Ajax), cha đẻ của
việc quốc hữu hóa dầu mỏ ở Iran, đă
nuôi dưỡng thái độ bài Mỹ, làm tư tưởng
chống Mỹ bùng lên trong những bài diễn văn
tiền cách mạng sau này là trong cuộc cách mạng năm
1979. Măi cho đến tận ngày nay, trong cuộc
chiến chống lại « quỷ dữ », người
Iran vẫn giữ thái độ bài Mỹ.
Nói tóm lại, sự can dự của Washington vào công
việc nội bộ của Iran làm xấu đi h́nh
ảnh của Mỹ ở Iran, nhưng việc thiếu
kiến thức về văn hóa Iran và sự kiêu
ngạo ngày càng tăng của người Mỹ cũng
khiến một bộ phận dân chúng Iran không c̣n
đánh giá cao người Mỹ như trước kia
...
|