Điểm
Sách: Đe Dọa Nhất Trong Khi Suy Yếu? Những Nguy Hiểm Mà Trung Quốc Gây Ra Cho Nền An Ninh Toàn Cầu Niall
Ferguson
|
Đoàn kết dưới chủ nghĩa
Cộng sản – Chúng ta có thể đánh bại phương
Tây, bản khắc gỗ do chính phủ Trung Quốc
sản xuất, 1950|© Buyenlarge/Getty Images Điều
luôn luôn là rơ ràng khi cuộc chiến bùng nổ. Ngay
cả khi không có lời tuyên chiến chính thức,
việc xâm lược hoặc hủy diệt khởi
đầu. Sự bộc phát của chiến tranh có
thể được đưa ra vào một ngày,
thậm chí trong một thời gian. Điều này
không đúng với cuộc chiến tranh lạnh. Hiện
nay, chúng ta nhớ lại bài diễn văn có mang
nhiều tiên đoán của Winston Churchill tại Fulton,
Missouri vào ngày 5 tháng 3 năm 1946, trong đó Churchill
đề cập đến một "bức màn
sắt" đang hạ xuống khắp lục địa
châu Âu "từ Stettin ở Baltic cho đến Trieste
ở Adriatic". Thực ra, Churchill chỉ đơn
giản đặt một cái tên sống động cho
những ǵ đă xảy ra. Tuy
nhiên, vào thời điểm đó, rất ít người
Mỹ chia sẻ sự bi quan của Churchill về các ư
định của Liên Xô. Bài b́nh luận của New
York Times về lời phát biểu có ngụ ư rằng
Hoa Kỳ phải lựa chọn giữa một liên minh
với Khối Thịnh vượng chung của Anh
hoặc một liên minh với Liên Xô, làm cho việc này
có vẻ như là một sự lựa chọn quân b́nh. Và
chỉ vài ngày trước bài diễn văn, Nghị sĩ
đảng Cộng ḥa Arthur Vandenberg, người sau này
đóng một vai tṛ chủ yếu trong việc thành
lập khối NATO, sẵn sàng cung cấp cho Stalin
"một hiệp ước pḥng thủ hổ tương
trực tiếp, dưới sự lănh đạo
của Liên Hiệp Quốc", và khẳng định
niềm tin của ông là Hoa Kỳ và Liên Xô có thể
"chung sống trong sự hài ḥa hoàn hảo". Chỉ
dần dần về sau, hầu hết người
Mỹ mới thấy rơ rằng "chiến tranh
lạnh" mà George Orwell đă tiên đoán sớm
nhất vào tháng 10 năm 1945, một "nền ḥa b́nh
phải là không ḥa b́nh" kéo dài vô thời hạn, là
thực tế. Phải
chăng chúng ta hiện nay đang ở trong thời
Chiến tranh Lạnh giai đoạn II với Cộng ḥa
Nhân dân Trung Hoa thay thế cho Liên Xô? Hầu
hết các học giả về các mối quan hệ
giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc không thích sự suy
luận tương tự đó. Tuy nhiên, ngay cả
Henry Kissinger, người đă bắt đầu công
việc tạo ra mối quan hệ giữa Washington và
Bắc Kinh trong tháng này của năm mươi năm
trước, cũng thừa nhận vào tháng 11 năm
2019 rằng, hai chính phủ hiện đang "ở
trong giai đoạn chuẩn bị của một
cuộc chiến tranh lạnh". Ngay
cả khi họ thích dùng các thuật ngữ khác hơn
("chiến tranh lạnh", "ḥa b́nh nóng"), ngày
càng có nhiều nhà b́nh luận ngầm chấp nhận
điều này - có nghĩa là, họ chấp nhận
rằng Trung Quốc dưới thời Tập Cận B́nh
đang hành xử theo những cách gợi lại các
đặc điểm của Churchill về "các
khuynh hướng mở rộng và cố gắng thu
phục" của Liên Xô dưới thời Stalin. Không
phải chỉ mọi thứ ở phía đông bức
màn sắt bị nằm dưới sự kiểm soát
của Moscow; ở Tây Âu, đạo quân thứ năm
của Cộng sản hoạt động miệt mài,
trong khi các tham vọng của Stalin cũng đe dọa
Thổ, Iran và Trung Quốc. Như Churchill đă nói, Liên
Xô không muốn chiến tranh "nóng". Họ
muốn ḥa b́nh nhưng theo cách "bành trướng vô
thời hạn về quyền lực và giáo điều
của họ". Cảnh
báo của Churchill rằng Trung Quốc có một
chiến lược quy mô cho sự thống trị
thế giới hiện nay đang là đề tài gây
thu hút cho các nhà xuất bản. Một ví dụ tiên
khởi và có gây ảnh hưởng của thể
loại này là tác phẩm The One Hundred Year Marathon:
China’s secret strategy to replace America as the global superpower (2015)
của Michael Pillsbury thuộc Hudson Institute. Sách này, cùng
với China`s Vision of Victory (2019) của
Jonathan T. Ward, đă cung cấp cho chính quyền của
Donald J. Trump một lư luận thuyết phục hơn
cho chính sách mới và mang tính chiến đấu hơn
đối với Trung Quốc so với chủ trương
bảo hộ kỳ lạ của Tổng thống.
Đóng góp mới nhất là của Dan Blumenthal, ông
thuộc phe cánh hữu Mỹ trong American Enterprise
Institute, trong sách in The China Nightmare: The grand ambitions of a
decaying state (American Enterprise Institute; paperback, £14.95) ông
lập luận rằng, "một trật tự
thế giới của Trung Quốc sẽ trông ...
giống như [Đảng Cộng sản Trung
Quốc]" - "ác tính", "đàn áp" và
"dựa vào các công cụ kiểm soát xă hội, cưỡng
chế và đàn áp. Có
lẽ điều đáng chú ư nhất về những
lập luận như vậy là, vào thời điểm
phân hoá đảng phái trở thành các đặc điểm
chính cho hầu hết mọi khía cạnh của sinh
hoạt Mỹ, chúng cũng có khả năng được
đảng Dân chủ như Cộng ḥa thực
hiện. Cuốn sách mới của Rush Doshi: The Long
Game: China’s grand strategy to displace American order (Oxford University
Press; £21.99), bắt đầu với các đề
xuất rằng: “Hiện nay, Trung Quốc đặt ra
một thách thức không giống bất cứ thách
thức nào mà Hoa kỳ từng đối phó" và
"mục tiêu tối hậu của Bắc Kinh là thay
thế trật tự của Hoa Kỳ trên toàn cầu
... trở thành quốc gia thống trị thế
giới vào năm 2049". Trong số tất cả các
cuốn sách thuộc về chủ đề này
xuất bản vào năm 2021, đây sẽ là cuốn sách
được đọc kỹ nhất, v́ Doshi
hiện là Giám đốc về Trung Quốc trong
Hội đồng An ninh Quốc gia của Tổng
thống Joe Biden và là người được Kurt
Campbell, "Sa hoàng châu Á" của Biden, bao che. Bản
chất của việc thách thức của Trung Quốc
là ǵ? Rơ ràng, vấn đề là hoàn toàn khác biệt
trong một số khía cạnh khi so với thách thức
của Liên Xô vào cuối những năm của
thập niên 1940. Stalin tin là khi áp đặt sự
kiểm soát của Liên Xô đối với các nước
láng giềng bằng cách thành lập các chế độ
bù nh́n và ủng hộ họ với lực lượng
Hồng Quân. Như
Doshi ghi nhận, điều đó không phải là phong cách
của đảng Cộng sản Trung Quốc. Trước
khi Tập lên nắm quyền rất lâu, các nhà lănh
đạo Trung Quốc, kinh hoàng trước ba cảnh
của Quảng trường Thiên An Môn, chiến tranh vùng
Vịnh lần thứ nhất và sự sụp đổ
của Liên Xô, đă bắt đầu làm cho các mũi
nhọn của bá quyền Mỹ bớt nguy hiểm hơn.
Đây là điểm thực sự trong câu châm ngôn
của Đặng Tiểu B́nh về Tháo Quang Dưỡng
Hối (“dấu khả năng và chờ thời").
Trung Quốc đă đầu tư vào các vũ khí
"sát thủ" bất đối xứng như tàu
ngầm, ḿn và tên lửa. Trung Quốc đă t́m cách
tham gia và đồng thời làm suy yếu các tổ
chức khu vực, đặc biệt là Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Và Trung Quốc
quyết tâm theo đuổi sự hội nhập kinh
tế của ḿnh trong trật tự thương
mại toàn cầu do Hoa Kỳ lănh đạo, đỉnh
điểm là việc được thu nhận vào
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào
năm 2001. Giai
đoạn hai diễn ra khi có cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu 2008-2009, dường như nó
tạo cơ hội để xây dựng các ảnh hưởng
trong h́nh thức mới, để "Tích cực hoàn
thành một cái ǵ đó", nói theo như lời
của Hồ Cẩm Đào. Hải quân Trung Quốc
đă mua các tàu hàng, có khả năng vừa trên đất
liền và vừa dưới biển và các căn
cứ ở hải ngoại. Trung Quốc đă thành
lập các định chế quốc tế mới,
đặc biệt là Ngân hàng Đầu tư Cơ
sở hạ tầng Châu Á (Asia Infrastructure Investment Bank).
Và Sáng kiến Vành đai và Con đường (Belt and
Road Initiative, BRI) của Tập bắt đầu dự
phóng các nguồn lực, quyền lực mềm và tuyên
truyền của Trung Quốc vượt ra ngoài Đông
Á. Gần
đây nhất, trong cuốn sách mới, Doshi lập
luận là trong bối cảnh "những thay đổi
trọng đại chưa từng thấy trong một
thế kỷ" (Brexit, cuộc bầu cử của
Trump và đại dịch Covid-19), giới lănh đạo
Trung Quốc đă khởi đầu việc bành trướng
công khai trên toàn cầu, "tiến gần hơn đến
trung tâm của chính trường thế giới", như
Tập đă đưa ra trong bài diễn văn trước
Đại hội Đảng lần thứ 19 vào tháng
10 năm 2017. Điều này đă tự thể
hiện rơ nhất trong phong cách "chiến binh sói"
mới của nền ngoại giao Trung Quốc, nhưng
những thay đổi thực chất bao gồm cố
gắng tạo ra một "đội quân đẳng
cấp thế giới", cố gắng kiểm soát các
thể chế thiết lập tiêu chuẩn quốc
tế (như Liên minh Viễn thông Quốc tế,
International Telecommunication Union), đầu tư quy mô vào
công nghệ của "cuộc cách mạng công
nghiệp thứ tư" (ví dụ: trí tuệ nhân
tạo và điện toán lượng tử) và
biến BRI trở thành một chương tŕnh toàn
cầu thực sự có thể so sánh được
với chiến lược nội chiến của Mao là
"từ nông thôn bao vây thành thị". Không
giống như nhiều nhà nghiên cứu khác của phương
Tây về chiến lược Trung Quốc, Doshi dựa
trên kiến thức sâu xa về các cuộc thảo
luận nội bộ và công khai của ĐCSTQ.
(Tiếp thu kiến thức như vậy là không dễ
dàng. Nhà Trung Quốc học người Bỉ quá
cố Simon Leys đă có lần so sánh việc đọc
các bài phát biểu và văn kiện hướng
dẫn của Đảng với việc "nuốt mùn
cưa bằng xô".) Nhưng Doshi nói có đúng không?
Hoặc là lập luận của ông chỉ là một
phiên bản đích thực được nghiên
cứu nghiêm túc và nặng về học thuật hơn
là các phiên bản của Pillsbury, Ward và Blumenthal. Odd
Arne Westad, nhà sử học của Đại học
Yale, một tiếng nói bất đồng chính kiến
quan trọng, thừa nhận các khuynh hướng bành
trướng của Trung Quốc từ Tây Tạng đến
Hồng Kông, Biển Đông, nhưng thấy
"rất ít có bằng chứng là chế độ này
đang phá hủy hệ thống quốc tế
được thiết kế và vẫn c̣n bị c̣n
chi phối bởi các cường quốc phương Tây". Gần
đây, trong tại chí Foreign Affairs, số ra ngày 28 tháng
5 năm 2021, Elizabeth Economy, đồng nghiệp của tôi
tại Viện Hoover, đă lập luận rằng, trên
thực tế, Trung Quốc yếu hơn nhiều so
với ngoại diện, chi tiêu nhiều hơn 30 tỷ
đô la cho an ninh nội địa so với Quân đội
Giải phóng Nhân dân, cái giá phải trả của
việc giữ một số dân ngày càng bất công và
phân hoá dưới sự kiểm soát của Đảng.
(Xem sự mô tả đáng kinh ngạc của Scott
Rozelle and Natalie Hell về sự bất b́nh đẳng
Trung Quốc ngày nay trong tác phẩm Invisible China: How
the urban-rural divide threatens China’s rise – University of Chicago
Press; £22, đây là một tác phẩm không thể
bỏ qua.) Và
trong một bài chuyên mục cho hảng thông tấn
Bloomberg (ngày 27 tháng 5 năm 2021), Bùi Mẫn Hân của
Claremont McKenna đă lưu ư rằng, xét về mặt
sự thịnh vương và khả năng quân sự
(đặc biệt là hạt nhân), Trung Quốc vẫn
thua xa Mỹ. Theo quan điểm của ông,
"những điểm yếu thuộc nội bộ
rất đa dạng, từ suy thoái dân số nhanh chóng
đến bất ổn xă hội, xung đột
sắc tộc và hệ thống tư bản nhà nước
không hiệu quả ... sẽ hạn chế sự phát
triển của sức mạnh Trung Quốc". Trung
Quốc cũng bị cô lập về mặt ngoại
giao, và bị trầm trọng hơn là do sai lầm
trong đợt bùng phát ban đầu của Covid-19 cũng
như tiếp theo sau đó là những nỗ lực
vụng về khi phủ nhận trách nhiệm và che
khuất những ǵ thực sự đă xảy ra
ở Vũ Hán. Đó là một dấu hiệu của
thời đại mà Ian Williams, một nhà báo kỳ
cựu người Anh theo cánh tả, trong cuốn sách
mới Every Breath You Take: China's new tyranny (Birlinn;
paperback, £16.99), phải mô tả đất nước
dưới thời Tập là "một cường
quốc hung hăng và bành trướng không chỉ
đàn áp người dân của ḿnh mà hiện nay c̣n
là mối đe dọa lớn nhất đối
với nền dân chủ phương Tây, các đồng
minh cùng chí hướng của họ và các giá trị
dân chủ nói chung". Luke
Patey, thuộc Viện Nghiên cứu Quốc tế Đan
Mạch, cho rằng, điều chính xác là loại
cảm xúc này không chỉ ở có Anh mà c̣n ở châu
Âu, nó sẽ khiến Trung Quốc thua trong việc giành
quyền thế giới - "không phải v́ thiếu
sức mạnh trong toàn cầu ... nhưng v́ những hành
động và tầm nh́n của các nhà lănh đă
gợi ra ... đẩy lùi trên toàn thế giới". Nghiên
cứu của Eyck Freymann về BRI, One Belt One Road:
Chinese power meets the world (Harvard University Press; £48.95) tiết
lộ một loạt các dự án được bao
bọc trong rất nhiều tuyên truyền, đôi khi
mất tiền, đôi khi việc mất bạn cũng
nhanh như khi được bạn, mặc dù Freymann
vẫn nghĩ rằng nó "tiêu biểu cho một mô
h́nh hoạt động cho một khối địa chính
trị trong tương lai do Trung Quốc lănh đạo,
được cấu trúc theo các đường
lối của một hệ thống triều cống
hiện đại". Trung
Quốc là một con hổ giấy, lập luận này
thật là thu hút. Sẽ rất là thuận tiện khi
cho rằng thách thức của Trung Quốc chỉ
đơn giản biến nhanh trong sự sụp đổ
đột ngột của nhà nước đế
chế độc đảng. Trong tác phẩm China
Coup: The great leap to freedom (University of California Press; £18.99),
Roger Garside, một nhà ngoại giao Anh hồi hưu, h́nh
dung ra một phiên bản của cuộc khủng
hoảng nội bộ Liên Xô năm 1991, so sánh với
việc Lư Khắc Cường hợp lực cùng Vương
Kỳ Sơn lật đổ Tập để đối
phó với một cuộc khủng hoảng do các
lệnh trừng phạt tài chính của Mỹ gây ra.
Việc này không nằm ngoài giới hạn của
khả năng và đó là một chuyên gia ngu ngốc
đă không học được từ việc Liên Xô
đột ngột sụp đổ. Mặt khác, Gordon
Chang đă xuất bản The Coming Collapse of China vào
năm 2001. Một hợp tuyển tất cả các bài
báo dự đoán sự sụp đổ của Trung
Quốc trong hai mươi năm qua sẽ là một
cuốn sách phong phú. Cách
duy nhất để ḥa giải hai lập trường
mâu thuẫn rơ ràng - "Trung Quốc là một mối
đe dọa" và "Trung Quốc yếu đuối"
- là lập luận, cùng với Blumenthal, rằng
"những điểm yếu trong nội bộ ngày càng
tăng của Trung Quốc", trên thực tế,
đây là "thúc đẩy các tham vọng chiến lược
lớn lao của họ". Trung Quốc vừa "thù
địch vừa bất ổn". "Thất
vọng" với các vấn đề nội bộ
"dẫn đến đánh nhau". Điều này cũng
không phải là một lập luận để
được bác bỏ một cách dễ dàng. Các
cuộc chiến tranh thế giới bắt đầu
không phải v́ các cường quốc đang trỗi
dậy - Đức, sau này là Nhật Bản - cảm
thấy tự tin, mà bởi v́ họ cảm thấy không
an toàn và thấy các cửa sổ chiến lược
của họ về cơ hội đóng lại. Một
năm trước, trong tạp chí National Interest (số
ra ngày 11 tháng 6 năm 2020), Graham Allison, tác giả
của tác phẩm có ảnh hưởng rất lớn
là Destined for War (2017), đă vẽ ra một sự
song song giữa bốn lệnh trừng phạt kinh
tế của Mỹ đối với Nhật Bản trước
trận Trân Châu Cảng và các biện pháp hiện
tại nhắm vào Trung Quốc - không giống quá
nhiều qua các biện pháp thuế quan của Trump như
các biện pháp nhắm vào các doanh nghiệp công
nghệ Trung Quốc như Hoa Vi. Trung
Quốc chi nhiều tiền cho việc nhập khẩu các
chất bán dẫn như họ đă làm đối
với nhập khẩu dầu và Mỹ kiểm soát các
trọng điểm của ngành công nghiệp chip, bao
gồm thiết bị sản xuất chất bán
dẫn và quyền sở hữu trí tuệ. Trung
Quốc không thể thiết kế chip tiên tiến mà
không sử dụng phần mềm tự động hóa
thiết kế điện tử của Mỹ. Trung
Quốc không thể sản xuất chúng nếu không có
các máy in thạch bản cực tím được
sản xuất bởi ASML, doanh nghiệp Hà Lan. Và không
có chất bán dẫn nào do Trung Quốc sản xuất
có thể cạnh tranh với chip 5 nanomet được
sản xuất bởi TSMC của Đài Loan. Như
một chính trị gia kỳ cựu của Mỹ đă
nói trong năm ngoái: "Trung Quốc sẽ ăn trưa
phần của chúng ta? Thôi nào, bạn. Ư tôi là, các
bạn biết đấy, họ không phải là
những người xấu. Nhưng hăy đoán xem?
Họ không phải là đối thủ của chúng
ta". Joe
Biden (v́ chính ông) đă rất vội vàng thay đổi
giọng điệu của ḿnh khi được
giải thích là, nếu ông muốn thắng cử
tổng thống, đối với Trung Quốc, ông
phải diều hâu hơn Trump, không ít hơn. Có
thể nói rằng, sự thay đổi trong t́nh
cảm của dân chúng mà chính Trump đă xúc tác, đă
buộc Biden phải thay đổi, nhưng nói chính xác
hơn, Biden chỉ hơi muộn đối với
việc chống Trung Quốc. Các
thành viên khác trong chính quyền của Barack Obama
hiện đang phục vụ dưới thời
Tổng thống mới - không chỉ Kurt Campbell mà
cả Ngoại trưởng Antony Blinken và Cố vấn
An ninh Quốc gia Jake Sullivan - đều đă thay đổi
giọng điệu về Trung Quốc trước
chiến dịch tranh cử năm 2020. Bây giờ
đường lối được thiết lập
vững chắc. Như Biden nói với các phóng viên vào
tháng 3, Trung Quốc sẽ không trở thành "quốc
gia đứng đầu, giàu có nhất và quyền
lực nhất thế giới" trong sự theo dơi
của ông. Đó
là một điều để đưa ra một
lời tuyên bố như vậy; điều khác là
để hoạch định một chính sách nhất
quán, có khả năng ngăn chặn sự trỗi
dậy của Trung Quốc với một cái giá có
thể chấp nhận được về mặt chính
trị. Các
lựa chọn chiến lược của Mỹ chính xác
là ǵ, khi giả sử rằng Trung Quốc không
phải sụp đổ trước? Vẫn c̣n có
những người (như Robert Zoellick hoặc Henry
Paulson) tin rằng, tinh thần xưa cũ của "đối
thoại chiến lược" và "ngoại giao
đôi bên cùng có lợi" bằng cách nào đó có
thể được hồi sinh (xem TLS, ngày 29 tháng 1 năm
2021), nhưng họ là một ban nhạc hết thu hút
ở Washington, nếu không phải trên Phố Wall. Sau
đó, có những người chẳng hạn như
Peter Beinart (xem the Atlantic, ngày 16 tháng 9 năm 2018) và
Stephen Wertheim (xem Foreign Affairs, tháng 3/ 4 năm 2020), dường
như sẵn sàng đáp ứng sự trỗi dậy
của Trung Quốc là một trong một số vấn
đề, và việc "thương thảo quan
trọng" là sẽ từ bỏ Đài Loan cho
Bắc Kinh, thừa nhận quân b́nh nếu không
muốn nói là ưu tiên đối với Trung Quốc
trong khu vực mới được đổi tên
gần đây là "Ấn Độ-Thái B́nh Dương". Như
trong những năm của thập niên 1930, sự xoa
dịu thường được tŕnh bày như là
chiến lược của giới duy thực. Theo
lời của Richard Hanania của Đại học
Columbia (xem Tập san Defense Proirities, tháng 5 năm 2021),
bất kỳ nỗ lực nào của Mỹ để
chống lại sự trỗi dậy của Trung
Quốc "sẽ thất bại và tăng khả năng
xảy ra một cuộc chiến tranh thảm sát".
Những lập luận như vậy không được
nhiều người trong Toà Bạch Ốc của Biden
thích. Đối
với chính quyền, những lập luận về kinh
tế khó thay đổi để làm sao cho phù hợp
với chương tŕnh nghị sự ở trong nước.
Trong The Great Decoupling: China, America and the struggle for
technology supremacy (Hurst; £25) Nigel Inkster, một giới
chức lăo luyện của t́nh báo Anh hiện đang làm
việc tại International Institute for Strategic Studies, lưu
ư rằng, sự khác biệt lớn nhất giữa
Chiến tranh Lạnh và hiện tại là mức độ
tương thuộc kinh tế giữa Mỹ và Trung
Quốc, điều mà các biện pháp thuế quan
của Trump được dự đoán là sẽ không
giảm. Như Inkster lưu ư, một sự suy luận
tương tự tốt hơn có thể là so với Vương
quốc Anh và Đức trước Thế chiến
thứ nhất. Nếu như vậy, cao độ
về thương mại và đầu tư song phương
tự nó không thể ngăn ngừa xung đột;
việc tách rời đă được tiến hành
(xem các biện pháp của chính quyền Trump nhằm
chống lại Hoa Vi) và có thể dễ dàng tăng
tốc trong một cuộc khủng hoảng. Hệ
luỵ của việc tách rời là sự khôi phục
cơ sở sản xuất của Mỹ đă bị xói
ṃn rất nhanh trong thời đại mà Moritz Schularick và
tôi gọi là "Chimerica". The
World Turned Upside Down: America, China, and the struggle for global
leadership (Yale University Press; £25) của Clyde Prestowitz
đề xuất một danh sách dài các biện pháp và
thể chế mới được thiết kế
để khôi phục Hoa Kỳ trong việc độc
lập kinh tế và chiếm ưu thế: phí tổn
để thâm nhập thị trường đối
với tất cả các khoản đầu tư
từ nước ngoài; chương tŕnh trẻ trung hóa
cho nước Mỹ; việc sát nhập Hội đồng
Kinh tế và An ninh Quốc gia; bộ phận cạnh
tranh; việc đối phó với Hoa Vi do nhà nước
tài trợ; ủy ban phát triển quốc gia hoặc cơ
quan có thẩm quyền. Đôi
khi, các mô h́nh bắt ngưồn từ quá khứ
của Mỹ (ví dụ như Woodrow Wilson thành lập
Radio Corporation of America để cạnh tranh với
Marconi, một chi nhánh của Anh, hoặc Đạo
luật Giáo dục Quốc pḥng năm 1958); đôi khi
chúng có nguồn gốc từ châu Âu (chẳng hạn
như đề xuất tái cấu trúc mô h́nh các công
ty cổ phần kiểu Đức (Aktiengesellschaft) thành
công ty đa quốc gia của Mỹ với tổ
chức công đoàn lao động được có
đại diện trong Hội đồng giám sát). Độc
giả nên suy ngẫm lại về việc bất
kỳ điều nào trong số này sẽ thực
sự ngăn cản cách mà Trung Quốc, thí dụ như
việc xâm lược Đài Loan như thế nào. Sự
khác biệt lớn lao giữa chiến lược
về Trung Quốc của Biden và Trump dường như
là ngoại giao hơn là kinh tế. Như Campbell và Doshi
đă tranh luận trước buổi lễ nhậm
chức của Biden (Foreign Affairs, ngày 12 tháng 1 năm
2021), "để ngăn chặn sự phiêu lưu
của Trung Quốc ... Washington sẽ phải làm
việc với những phe khác". Tuy
nhiên, thay v́ thành lập một liên minh lớn tập
trung vào mọi vấn đề, Mỹ nên theo đuổi
các cơ quan hoặc đặc biệt tập trung vào
các vấn đề riêng biệt, chẳng hạn như
D-10 do Vương quốc Anh đề xuất (các
nền dân chủ G-7 cộng với Úc, Ấn Độ
và Hàn Quốc) [hoặc] ... cái gọi là Bộ Tứ
hiện bao gồm Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và
Hoa Kỳ. Doshi
tin rằng Mỹ và các đồng minh nên áp dụng các
phương pháp làm suy yếu và xây dựng của
Trung Quốc, ví dụ như sao chép cách tiếp cận
"chống tiếp cận/từ chối khu
vực" của Trung Quốc đối với pḥng
vệ. Vấn đề đặt ra là những phương
sách này có thể tạo ra một cái ǵ đó có
hiệu quả rất mơ hồ như NATO trong
thời Chiến tranh Lạnh. Châu Á không phải là châu
Âu và Thái B́nh Dương không phải là Đại Tây
Dương. Trung Quốc hiện ra rộng lớn hơn
nhiều ở Đông Á so với Liên Xô đă hiện
ra ở Tây Âu, và San Francisco cách Đài Bắc gấp
đôi so với New York đến Paris. Một quan
chức Nam Hàn gần đây đă so sánh sự cần
thiết phải chọn phe trong một cuộc tranh
chấp Mỹ-Trung với việc "hỏi một
đứa trẻ liệu xem là bé thích bố hay
mẹ". Phần
I của Chiến tranh Lạnh đă có các cuộc
khủng hoảng Berlin, Cuba và Trung Đông. Phần II
của Chiến tranh Lạnh có tiềm năng biến
đổi tất cả thành một cuộc khủng
hoảng duy nhất tại Đài Loan. Ḥn đảo có
ư nghĩa biểu tượng của thủ đô
Đức, sự nhạy cảm về địa lư
của đảo Caribbean và trung tâm kinh tế của
Vịnh Ba Tư. Không ai nên có bất cứ nghi ngờ
nào khi chấm dứt quyền tự trị và dân
chủ trên thực tế của Đài Loan là mục
tiêu tối hậu của Tập, cũng như Trung
Quốc đă biểu hiện đe doạ sức
mạnh không và hải quân trong năm qua. Oriana
Skylar Mastro, Elbridge Colby, Jim Mitre, Philip Zelikow và Robert
Blackwill: danh sách các chuyên gia cảnh báo về một
cuộc chiến tranh ở Đài Loan kéo dài hơn
mỗi tháng. Con số đang tranh luận (với Patrick
Porter và Michael Mazar; xem báo cáo của họ cho Viện
Lowy, ngày 20 tháng 5 năm 2021) rằng trận đấu
không đáng để cho cả hai phía bỏ công, v́ là
nhỏ hơn. Chính
trong bối cảnh này, tiểu thuyết 2034 (Penguin;
$ 27) của Elliot Ackerman và James Stavridis rất đáng
đọc. Stavridis tưởng tượng một
cuộc bao vây bất ngờ của hải quân Trung
Quốc tại Đài Loan là một trong những mưu
đồ mở đầu của Thế chiến
thứ Ba. Trong cuộc hải chiến sau đó, Hoa
Kỳ chịu tổn thất nặng nề đến
mức bị thúc đẩy để tấn công
Trạm Giang (ở tỉnh Quảng Đông) bằng vũ
khí hạt nhân, dẫn đến việc xóa sổ San
Diego và Galveston. Westad
đă lập luận: "Đối với Trung
Quốc, chiếm Đài Loan bằng vũ lực sẽ
hơi giống như muốn bay và nhảy ra khỏi vách
đá để chứng minh rằng điều đó
là có thể: cuộc chiến sẽ xảy ra sẽ là
thảm sát cho Trung Quốc và thế giới". Nhưng
Norman Angell đă đưa ra những lập luận tương
tự về bản chất ảo tưởng của
sự xâm lược của Đức chỉ năm năm
trước năm 1914. Như
Hal Brands gần đây đă chỉ ra (trong Bloomberg, ngày
7 tháng 6 năm 2021), vấn đề là năm 2034 có
thể là một ngày xa cách thiếu thực tế cho
một cuộc hạ màn Trung-Mỹ. Một
ngày hợp lư hơn, nói theo sự cân bằng tương
đối của các lực lượng, có thể là
năm 2025. Nhà đầu tư công nghệ Peter Thiel
đă gợi ư rằng, một động thái của
Trung Quốc đối với Đài Loan có thể
đến sớm nhất là vào năm tới, sau
Thế vận hội Mùa đông Bắc Kinh (giống như
Nga xâm lược Ukraine sau Thế vận hội 2014
ở Sochi). Không
phải là Mỹ thiếu nguồn tài chính để ngăn
chặn Trung Quốc mạo hiểm xâm lược xuyên
eo biển (hoặc thậm chí là việc chiếm
giữ ít rủi ro hơn các đảo xa xôi Kim Môn và
Mă Tổ). (Như Michael Beckley đă chỉ ra; xem Foreign
Affairs, ngày 12 tháng 6 năm 2021) nhiều hơn rằng
Lầu Năm Góc đang chi tiền nhiều hơn cho
những điều sai trái - chiến hạm lớn và
máy bay chiến đấu tầm ngắn hoạt động
từ các căn cứ phơi bày, thay v́ một "băi
ḿn" công nghệ cao của các bệ phóng hoả
tiển đă định vi trí trước, máy bay không
người lái có vũ trang và cảm biến. Khi
Churchill mô tả thế giới bị chia cắt
bởi một bức màn sắt, đó là việc
phải bán cho người Mỹ ư tưởng về
một "mối quan hệ đặc biệt"
giữa Hoa Kỳ và Khối thịnh vượng chung và
Đế quốc Anh. Ông lập luận, sự sụp
đổ của liên minh thời chiến đă đánh
bại các cường quốc phe Trục sẽ cung
cấp cho Liên Hiệp Quốc mới "những
nghị lực của ḥa b́nh" cần thiết để
ngăn chặn chủ trương bành trướng
của Liên Xô. Trong khi vấn đề Đế
quốc được giải toả và Tây Âu phục
hồi, thay v́ thế là một liên minh xuyên Đại
Tây Dương thành h́nh. Nhưng NATO đă làm công
việc này đúng như Churchill dự định, ngay
cả khi cần đến George Kennan gọi công
việc đó là "ngăn chặn". Các
giới khoa bảng, báo chí và ngoại giao, tuỳ theo
những cách khác nhau của họ, khao khát trở thành
Kennan của Chiến tranh Lạnh lần thứ II. Tuy
nhiên, không có cuốn sách nào được điểm
ở đây đạt đến sự trong sáng
của Kennan trong bài “The Source of Soviet Conduct”, được
xuất bản trên tạp chí Foreign Affairs một năm
sau bài phát biểu về Bức màn sắt của
Churchill. Hiện nay, bài báo này đáng được
đọc lại. Kennan
hỏi: "Ai có thể nói chắc rằng ánh sáng
mạnh mẽ vẫn được Điện Kremlin
soi rọi vào dân chúng bất măn của thế giới
phương Tây không phải là ánh sáng nóng rực c̣n
lại của một cḥm sao mà trong thực tế là
đang suy yếu? ... khả năng tồn tại ... là
sức mạnh của Liên Xô ... mang bên trong mầm
giống của sự suy tàn, và những hạt
giống nảy mầm tốt". Một
số người có thể đặt câu hỏi tương
tự về Trung Quốc ngày nay. Tuy nhiên, Kennan đă
bốn mươi ba tuổi khi viết những lời
đó và tám mươi bảy tuổi khi Liên Xô
cuối cùng đă bị giải thể vào tháng 12 năm
1991. Cũng
giống như không ai có thể đoan chắc khi
một cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu,
cũng không thể có bất kỳ sự chắc
chắn nào về thời gian kéo dài của một
cuộc chiến như vậy. Chỉ v́ Chiến tranh
Lạnh lần thứ I kéo dài khoảng bốn mươi
năm không đảm bảo rằng điều tương
tự cũng sẽ đúng với Chiến tranh
Lạnh lần thứ II. Những người thực
hiện chính sách đối ngoại của Mỹ ngày
nay phải hy vọng điều tốt nhất nhưng
chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Nó
thực sự có thể là một tṛ chơi lâu dài. *** Cuốn
sách mới nhất của Niall Ferguson là Doom:
The politics of catastrophe, 2021 Bài
liên quan: Trung
Quốc và Hoa Kỳ nên cạnh tranh như thế nào*- Thế
chiến tương lai sẽ bùng nổ vào năm 2034 - Sự
thuần lư trong cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa
Kỳ |