Cố Tổng thống Jimmy Carter: Một tấm ḷng đầy nhân ái Đỗ Kim Thêm |
Từ lâu, cựu Tổng thống Mỹ Jimmy
Carter đă được công luận cũng như
giới sử gia coi là phải cam chịu nhiều
thất bại trên chính trường. Bằng chứng
hiển nhiên nhất là sau một nhiệm kỳ
tại chức, năm 1980, ông không được tái
đắc cử, chuyện hiếm có trong lịch
sử tranh cử tổng thống Mỹ. Sau khi rời
nhiệm sở, ông không để lại một uy danh
hay di sản nào nổi bật, nhưng sau đó,
với tinh thần dấn thân miệt mài cho phát
triển dân chủ và bảo vệ nhân quyền trên
khắp thế giới, ông đă nhận được
giải Nobel Hoà b́nh và thanh danh ngày càng lan rộng hơn.
Ông vừa qua đời vào ngày 29 tháng 12 năm 2024, thượng
thọ ở tuổi 100 và để lại niềm thương
tiếc sâu xa trong ḷng mọi giới. So với hầu hết các tổng thống
Mỹ trong lịch sử cận đại, Carter khác
hẳn về nguồn gốc: Xuất thân từ
một gia đ́nh nghèo trồng đậu phộng, ông
sinh năm 1924 tại Plains, Georgia và đă làm việc
theo nhiều phương cách riêng của ḿnh để
tiến thân. Sự nghiệp chính trị bắt đầu
khi ông trở thành Thống đốc tiểu bang Georgia
và sau đó đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ
vào năm 1976. Thắng cử trước Ford Là ứng cử viên cho Đảng Dân chủ,
Carter nhậm chức Tổng thống thứ 39 của
Hoa Kỳ vào tháng 1 năm 1977 trong khi Hoa Kỳ lâm vào
một cuộc khủng hoảng chính trị cực
kỳ nghiêm trọng: Vụ Watergate kéo dài từ năm
1972 đến năm 1974 làm cho dân chúng không c̣n tin tưởng
vào hệ thống công quyền. Người kế
nhiệm cho Tổng thống Richard Nixon là Gerald Ford –
cả hai đều thuộc đảng Cộng ḥa –
cũng không thể giải quyết được các
hậu quả tang thương này và Carter cũng không
thể hănh diện là thắng cử một cách vinh
quang v́ tỷ lệ thắng chỉ suưt soát trước
Ford. Từng làm một nhà truyền giáo Baptist, do
đó, đối với Carter, tinh thần đạo
đức đóng một vai tṛ quan trọng khi ông
nhậm chức Tổng thống. Hơn nữa, là
một người xuất thân từ môi trường
nông thôn, đức tính cơ bản của Carter là
chỉ biết sống đơn giản, khiêm tốn và
trung thực. Carter đặt trọng tâm trong chính sách đối
ngoại là bảo vệ nhân quyền và phát triển dân
chủ. Ước vọng của ông là làm sao thúc
đẩy cho nền dân chủ ở các nước
đang phát triển cùng lúc cất cánh với các động
lực kinh tế và đạo đức và thông qua
sự hợp tác quốc tế để tạo cho hai
khối Đông và Tây có các nền tảng ràng
buộc. Nhưng các đồng minh ở Bonn, Paris và
London tỏ ra không thân thiện với các chính sách
của Carter. Họ cáo buộc ông về khả năng
lănh đạo yếu kém và than phiền về sự
bất ổn của các chế độ ở Iran và
Nicaragua, cũng như sự thoái bộ về chính
trị quyền lực của phương Tây trước
sự hung hăn của Liên Xô. Hiệp ước SALT II về hạn chế vũ
khí hạt nhân chiến lược năm 1979 là một
gánh nặng đặc biệt. Châu Âu lo ngại v́ các
tên lửa hạt nhân tầm trung của Liên Xô có
thể vươn tầm đạn tới Tây Âu, nay
lại được mở rộng hơn. Thủ tướng
Đức khi đó là Helmut Schmidt (SPD) coi Carter không
chỉ là một người không có chuyên môn về
hoạch định chính sách kinh tế, mà c̣n là
một nhà đạo đức không thể đoán trước
và nhất là không hiểu nhiều về lợi ích
của châu Âu. Hoà ước giữa Israel và Ai Cập Nhưng với những yêu sách đạo đức,
Carter cũng đạt được những thành công:
Tại trại David của Tổng thống, ông mở
ra con đường cho ḥa ước đầu tiên
giữa Israel và Ai Cập. Nếu không có sự trung gian
ḥa giải của Carter, bước đi lịch
sử này có lẽ sẽ không xảy ra. Nhà sử
học Christian Hacke ghi nhận: “Cả người Ai Cập và Israel đều
một ḷng nhiệt t́nh ngưỡng mộ đối
với Tổng thống Mỹ, người có sự kiên
tŕ để giải quyết những chi tiết
nhỏ nhất của các vấn đề, tham gia vào
nhiều cuộc thảo luận, biết lắng nghe,
tiến hành các cuộc tṛ chuyện với thẩm
quyền cao độ và luôn đưa ra các đề
xuất ḥa giải mới cho cả hai.” Chiến lược độc đáo của
Carter cùng với những đóng góp to lớn về tài
chính của Hoa Kỳ giúp cho hai nguyên thủ quốc gia
Ai Cập Anwar al-Sadat và Israel Menachem Begin có cái bắt tay
lịch sử. Tuy nhiên, thành công về ngoại giao cũng không
có nghĩa Carter có nhiều may mắn trong việc
giải quyết các vấn đề chính trị trong nước.
Cuộc Đại suy thoái vào cuối những năm
1970, t́nh trạng khan hiếm năng lượng,
lạm phát và suy thoái và tỷ lệ thất nghiệp
gia tăng đều đặn đă làm cho người
Mỹ hoang mang cực độ. Thêm vào đó, lời
kêu gọi của Tổng thống trong việc bảo
tồn năng lượng làm cho việc bất măn
của dân chúng càng lên cao. Tác động mạnh nhất trong cục
diện thế giới lúc bấy giờ là cuộc xâm
lược Afghanistan của Liên Xô vào tháng 12 năm
1979. T́nh h́nh biến động đă khiến cho
thế giới nghi ngờ về sức mạnh của
cường quốc Mỹ. Carter chỉ c̣n biết
phản ứng bằng việc tẩy chay, tăng ngân sách
vũ khí và tái tranh cử tổng thống. Thất cử sau cuộc khủng hoảng
ở Iran Cuộc khủng hoảng con tin ở Iran năm
1979 trở thành một gánh nặng nghiêm trọng hơn
cho Carter. Trong bối cảnh Cách mạng Hồi giáo, các
sinh viên Iran đă xông vào Đại sứ quán Mỹ,
bắt 52 người Mỹ làm con tin và chỉ thả
họ sau 444 ngày. Tất cả các cuộc đàm phán
đều thất bại và một chiến dịch
giải cứu cho con tin bị phá vỡ. Chín người
đă thiệt mạng làm cho thanh danh ngoại giao
của Carter tiếp tục suy giảm. Do đó, trong cuộc bầu cử năm 1980,
ông đă bị đánh bại bởi Ronald Reagan. Carter
là một trong số ít Tổng thống Mỹ chỉ làm
việc có một nhiệm kỳ và kết thúc sự
nghiệp chính trị khi chỉ vừa mới 56
tuổi. Năm 1981, ông trở lại Plains, Georgia và kiên
quyết muốn làm thay đổi h́nh ảnh của ḿnh
như là kẻ thua cuộc. Ông cho rằng: “Tôi đă làm việc cho ḥa b́nh ở Trung
Đông và b́nh thường hóa quan hệ với Trung
Quốc, mở ra mối quan hệ với Cuba, và tôi nghĩ
tất cả các điều đó là đúng. Tôi cũng
đă biến các vấn đề nhân quyền thành
nền tảng của chính sách đối ngoại
của chúng ta. Nếu theo ư kiến của đa
số, đây được coi là một điểm
yếu của tôi, th́ tôi phải ghi nhận, nhưng
khi nh́n lại, ư tưởng chính của tôi đó là
những điều đúng đắn để nước
Mỹ duy tŕ được vai tṛ lănh đạo
thế giới.” Nhà hoà giải trên toàn cầu Cùng với vợ là Rosalynn, ông thành lập
Trung tâm Carter ở Atlanta mà mục đích chủ
yếu là hoạt động cho các công cuộc ḥa
giải trên toàn cầu, điển h́nh là làm quan sát
viên cho các cuộc bầu cử hoặc quảng bá cho
các chương tŕnh chăm sóc sức khỏe ở các
điểm xung đột trên thế giới, như
tại Sudan, Haiti, Bắc Triều Tiên và Bosnia. Hiện nay, khi nh́n lại thành tích của ông
trong thực tế, hầu hết công luận phải công
nhận là ông quan tâm đến những người dân
thường bị các chính sách của cường
quốc lăng quên. Một ghi nhận khác về con người cao
quư của ông là ông vẫn dám sống thật với
bản chất của ḿnh để hành động
theo tâm nguyện. Ấn tượng về một
cựu chính khách khiêm tốn, trung thực và tận
tụy cho công vụ đă làm lu mờ h́nh ảnh
của một Tổng thống tồi tệ và thất
cử trong quá khứ. Điểm đặc biệt là Carter vẫn
trung thành với hoàn cảnh mà ộng xuất thân. V́
vậy, là cha của bốn đứa con, ông sống
đến ngày cuối đời ở Plains trong ngôi nhà
hai pḥng ngủ mà ông đă xây vào năm 1961. So với
các cựu Tổng thống khác, Carter không kiếm
được hàng triệu đô la từ các bài
diễn thuyết vang dội; ngược lại,
nguồn thu rất khiêm tốn là từ 21 cuốn sách
của ḿnh. Chỉ trích Bush và Blair Carter thường không có ngôn ngữ khôn khéo
của nhà ngoại giao, mà ông đă từng bị
chỉ trích nặng nề khi c̣n là Tổng thống;
hiện nay, nhiều người Mỹ coi lời phê b́nh
này là xác thực. Ông không kềm chế lời nói
của ḿnh, ngay cả với những người
kế nhiệm, ví dụ như khi chỉ trích hành vi
đạo đức của Tổng thống Clinton trong
vụ bê bối Lewinsky và cáo buộc Tổng thống
Obama đă không đủ mạnh mẽ để
chiến đấu chống lại với cái gọi là
Nhà nước Hồi giáo. Ông mô tả chính quyền của George W. Bush là
“tồi tệ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ
cận đại”. Ông c̣n cáo buộc Bush và Thủ tướng
Anh Tony Blair là đă gây chiến tại Iraq vào năm
2003 khi dựa trên cơ sở “dối trá và hiểu
sai” và do đó mà phải hy sinh các giá trị cao quư
của Mỹ và phương Tây theo đuổi. Giải Nobel Ḥa b́nh Năm 2002, tinh thần dấn thân trong công
vụ của Carter sau nhiệm kỳ đă được
trao giải Nobel Ḥa b́nh, mà chính ông cũng đă nói
thời gian sau này đúng là “nhiệm kỳ thứ
hai” của ḿnh. Ủy ban Oslo nhấn mạnh đến
tinh thần không mệt mỏi của ông đối
với việc phát huy dân chủ và bảo vệ nhân
quyền. Hiện nay, các sử gia đánh giá lại
một cách tích cực hơn về thời gian lúc c̣n
tại chức của Carter, ít nhất là một
phần, thí dụ như ông có viễn kiến và thành
công trong các các vấn đề môi trường và ḥa
b́nh. Cho đến tuổi già, Carter vẫn c̣n tham
gia vào các cuộc tranh luận chính trị. Ông tin
rằng Donald Trump chỉ vào được Nhà Trắng
thông qua sự can thiệp của Nga trong cuộc vận
động bầu cử năm 2016. Vào năm 2022, trong
một bài báo trên New
York Times, ông cáo buộc Đảng Cộng ḥa
kích động cho việc mất niềm tin vào hệ
thống bầu cử. Ông mơ ước là t́nh
trạng phân hoá chính trị trong nước sẽ
giảm thiểu hơn và cảnh báo về giá trị
của nền dân chủ đang tàn lụn. Bên vợ hiền Rosalynn Năm 2016, Trung tâm Carter thông báo là cựu
Tổng thống đă thoát khỏi bệnh ung thư
gan. Vào thời điểm đó, Carter đă 98 tuổi
và sẽ được chăm sóc tại gia sau một
vài thời gian ngắn nằm viện. Ông đă
“quyết định dành thời gian c̣n lại dành
cho gia đ́nh”. Lần cuối cùng ông xuất hiện
trước công chúng là vào tháng 11 năm ngoái tại
đám tang của vợ ông Rosalynn. Carter đă qua đời và thượng
thọ ở tuổi 100. Nước Mỹ thương
tiếc sự mất mát của một vị Tổng
thống mà từ lâu được cho là không thành công.
Nhưng thực ra, khi nh́n lại, phải công tâm mà
kết luận rằng, ông chắc chắn là cựu
Tổng thống thành công mà Hoa Kỳ từng có. Ḷng nhân ái của Carter dành cho thuyền nhân người
Việt Không chỉ có người dân Mỹ hay các nước
chậm tiến đề cao ông về tấm ḷng nhân
ái, mà tất cả người Việt tị nạn
tại Mỹ đều tưởng nhớ đến
ông v́ chính tấm ḷng của ông đă tạo ra điều
kiện cho việc tiếp nhận và hội nhập. Một bằng chứng điển h́nh là vào năm
1977, khi dân tị nạn Việt Nam đầu tiên đến
định cư tại Mỹ, họ chỉ sống
trong t́nh trạng tạm dung, tức là không được
lănh trợ cấp. Carter là tác giả dự luật
chuyển cho họ quy chế từ tạm dung sang thường
trú nhân. Đó là một đạo luật với
nhiều ân huệ đặc biệt để giúp cho
người tị nạn có điều kiện vật
chất để ổn định cuộc sống và
hội nhập vào nước Mỹ. Một thí dụ khác là khi tham dự hội
nghị quốc tế ở Geneva để t́m ra
giải pháp tiếp nhận và phân phối thuyền nhân
người Việt, chính Carter đă là nguyên thủ
đầu tiên đưa ra cam kết sẽ tiếp
nhận từ 7 ngàn lên 14 ngàn người một tháng,
tổng cộng 168 ngàn thuyền nhân một năm. Nhân
dịp này, Carter c̣n lên tiếng kêu gọi các nước
đang tạm dung thuyền nhân hăy tiếp tục
tiếp nhận và kết quả là các nước Âu-Mỹ
đồng loạt gia tăng con số tiếp nhận. Carter giúp thông qua Đạo luật Tị
nạn năm 1980 mà cho đến nay được xem
như là đạo luật tị nạn đầu tiên
của nước Mỹ và tạo ra Chương tŕnh
Tái định cư cho Người tị nạn Liên
bang, gia tăng mức giới hạn hàng năm cho người
tị nạn từ 17.000 lên 50.000 người. Luật
này được Đảng Cộng ḥa ủng hộ
và người dân Mỹ không phản đối và là
nền tảng để cho việc tiếp tục thâu
nhận người tị nạn trong những chương
tŕnh HO và ODP. Nói chung, không có t́nh nhân ái của Carter dành cho
các thuyền nhân người Việt, lịch sử
về sự hội nhập và phát triển của người
Việt tại nước Mỹ sẽ khác đi. Carter
là người đầu tiên đă làm thay đổi
toàn bộ chính sách và sự đối xử của
thế giới nói chung và người dân Hoa Kỳ nói
riêng đối với người tị nạn
Việt Nam. Chúng ta vô cùng thương tiếc sự ra
đi của ông, cùng thành tâm tưởng nhớ công
ơn này và cầu mong cho ông được yên
nghỉ đời đời. Đ. K. T. |