Chuyên
gia Mỹ: Trung Quốc đánh Bãi Tư
Chính để nắn gân quan hệ Việt-Mỹ
Trọng Nghĩa |
Về
lý do Trung Quốc đột nhiên xâm lấn khu vực
Bãi Tư Chính trong vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam, nhiều giả thuyết
đã được đưa ra. Trong bài phân
tích « Tại sao Bãi Tư Chính, và
tại sao vào lúc này ? - Why Vanguard Bank and Why
Now ? », công bố ngày 16/08/2019 trên trang mạng
Maritime Issues, chuyên gia Mỹ Derek Grossman thuộc
trung tâm tham vấn Rand Corporation, đã đưa ra
một giải thích lý thú về hành vi
này của Trung Quốc tại Biển Đông. Theo nhà
nghiên cứu Mỹ, « Bắc Kinh có
lẽ đang thăm ḍ sự bền bỉ của tiến
trình củng cố quan hệ quân sự giữa Hoa
Kỳ và Việt Nam », vào lúc mà Hà
Nội đã có những mối nghi ngờ
thực sự về tính bền vững của
các cam kết an ninh của Hoa Kỳ đối với các
đồng minh. Tác
giả cho rằng việc Mỹ để yên cho
Trung Quốc chiếm lấy băi cạn Scarborough
vào năm 2012 từ tay Philippines, dù Manila là một
đồng minh kết ước của Washington, là một
ví dụ kinh điển giải thích thái độ
hoài nghi của Hà Nội về tính đáng
tin cậy của Washington. Chuyên gia Derek
Grossman trước hết ghi nhận rằng trong
những cuộc thảo luận gần đây với các
nhà nghiên cứu Việt Nam, có một câu hỏi
được nhắc đi nhắc lại : Sau một
thời gian dài tương đối b́nh lặng trong
quan hệ với Việt Nam trên vấn đề
Biển Đông, tại sao Trung Quốc lại bất
ngờ quyết định đánh vào Bãi Tư
Chính ? Từ
vụ Hải Dương 981, Trung Quốc không ngừng
gây hấn với Việt Nam tại Biển Đông Đối
với ông Grossman, có nhiều yếu tố
có thể trả lời cho câu hỏi đó, mà
đầu tiên hết là Trung Quốc chưa bao giờ
dừng việc gây hấn với Việt Nam trong ṿng năm
năm qua, cho dù vụ Bãi Tư Chính là một
vụ căng thẳng tệ hại nhất giữa
Việt Nam và Trung Quốc tại Biển Đông
kể từ vụ giàn khoan Hải Dương 981 vào tháng
5/2014. Trong hai năm
liên tiếp, Trung Quốc đă gây áp lực rất
lớn không cho Việt Nam việc khoan dò ở các
khu vực mà Việt Nam coi là thềm lục địa
của ḿnh theo Luật Biển Liên Hiệp Quốc,
nhưng bị Trung Quốc coi là khu vực tranh chấp.
Vào năm
2018 chẳng hạn, Bắc Kinh đă buộc Hà Nội
hủy hợp đồng thăm dò ở ngoài
khơi bờ biển phía Nam Việt Nam với công ty năng
lượng Tây Ban Nha Repsol. Ngoài ra, tàu dân quân biển
Trung Quốc bị cáo buộc là thường xuyên
đâm tàu đánh cá Việt Nam, ngay cả khi Hà
Nội trong đa số trường hợp, đều
tránh nêu bật các sự cố đó để duy tŕ
ổn định trong quan hệ song phương. Tuy nhiên, căng
thẳng đă xuất hiện mạnh trở
lại vào đầu năm nay, và rốt cuộc
Việt Nam đă quyết định cho trưng bày
một chiếc tàu đánh cá Việt Nam bị đâm
chìm trong vụ Hải Dương 981, đồng
thời cho công bố tài liệu video về hành vi
của tàu Trung Quốc đâm tàu cá Việt Nam vào
thời đó. Đối
với chuyên gia Grossman, Trung Quốc không chỉ hung hăng
với Việt Nam, mà cả với các nước khác
có biển đảo bị Bắc Kinh tranh chấp. Tác
giả nêu bật ba trường hợp. Bắt
đầu từ cuối năm ngoái, hàng trăm tàu dân
quân biển Trung Quốc đă tràn đến bao vây
đảo Thị Tứ đang tranh chấp với
Philippines. Các chiến thuật « vùng xám » như thế
được dùng để sách nhiễu ngư
dân Philippines và tạo ra căng thẳng với
Manila. Bắc Kinh
từ năm 2013 cũng đă không ngừng cho tàu vào
tuần tra ở khu vực băi cạn Luconia mà
họ tranh chấp với Malaysia. Còn
ở ngoài vùng Biển Đông, Trung Quốc đă
đẩy mạnh số vụ xâm nhập vào khu vực
tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư ở Biển Hoa
Đông do Nhật Bản kiểm soát. Trung
Quốc tự tin có dư sức mạnh để
đánh bại Việt Nam Hành vi xâm
lấn Băi Tư Chính, theo chuyên gia Grossman, c̣n xuất phát
từ việc Bắc Kinh cảm thấy đă có dư
sức mạnh quân sự để thách thức
Việt Nam cũng như các nước trong khu vực có
tranh chấp với Trung Quốc. Trung
Quốc có lực lượng hải quân, hải
cảnh và dân quân biển lớn nhất thế
giới, và quân đội Trung Quốc không ngừng rèn
luyện năng lực hợp đồng tác chiến
giữa Hải Quân và Không Quân để có thể
chiến đấu ở Biển Đông, Biển Hoa
Đông hoặc để đánh chiếm Đài Loan. Ngoài ra,
việc Trung Quốc đă hoàn tất các hoạt động
bồi đắp đảo nhân tạo ở Trường
Sa, và thiết lập các căn cứ hải quân và không
quân rải rác trên Biển Đông, dù ở Hoàng Sa hay
Trường Sa, điều đó đă cung cấp cho
Bắc Kinh những điểm tựa mới để
cung cấp nhiên liệu, giúp họ dễ dàng tuần
tra liên tục các khu vực tranh chấp. Một ví
dụ : Vào đầu tháng 8 này, một tàu khảo sát
Hải Dương Địa Chất 8 của Trung
Quốc, sau nhiều tuần hoạt đông ở Băi Tư
Chính, đă trở về t́m tiếp liệu không
phải ở bờ biển Trung Quốc xa xôi, mà là
ở ngay một trong những căn cứ hải quân
mới của Bắc Kinh trên Đá Chữ Thập
ở Trường Sa. Đến giữa tháng 8, th́
chiếc tàu này lại trở lại vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ). Nh́n xa hơn,
nếu Bắc Kinh xây dựng xong các cơ sở
hải quân và không quân ở Cam Bốt, th́ Việt Nam
sẽ phải đối mặt với một mối
đe dọa mới ở sườn phía Tây của ḿnh. Quan
hệ xấu đi với Mỹ khiến Bắc Kinh thêm
hung hăng Một nguyên
nhân khác là quan hệ xấu đi với Mỹ trong
những năm gần đây, đặc biệt là trên
hồ sơ Biển Đông. Điều này đă
khiến Bắc Kinh ngày càng t́m cách bảo vệ các yêu
sách chủ quyền của Trung Quốc chống lại
các hoạt động bảo vệ tự do hàng
hải (FONOPs) do Hoa Kỳ tiến hành. Chuyên gia
Grossman đă nhắc lại là vào cuối tháng 6,
lần đầu tiên, quân đội Trung Quốc đă
thử nghiệm ở khu vực gần quần đảo
Trường Sa, một tên lửa đạn đạo
chống hạm, có lẽ là loại gọi là « sát
thủ tàu sân bay » DF-21D và một biến thể
của loại DF-26 có tầm hoạt động xa hơn.
Những
vụ Trung Quốc cho chiến hạm bám đuôi tàu
Mỹ tiến hành các chiến dịch tuần tra, và
cảnh cáo rằng các chiếc tàu đó đă xâm
phạm bất hợp pháp vùng biển nội địa
Trung Quốc, đă làm gia tăng căng thẳng trong
những tháng gần đây. Vụ việc lớn
cuối cùng xảy ra vào đầu tháng 10 năm 2018
khi một khu trục hạm lớp Lữ Dương
của Hải Quân Trung Quốc đă áp sát tàu khu
trục Mỹ USS Decatur, chỉ cách khoảng 45 mét. Theo ông
Grossman, quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc ngày càng xấu
đi có thể dẫn đến hành vi quyết đoán
hơn của Trung Quốc để đẩy lùi không
chỉ Mỹ, mà tất cả các nước khác trong
khu vực. Thăm
ḍ độ bền của quan hệ quốc pḥng
Mỹ-Việt đang càng lúc càng chặt chẽ hơn Xuất phát
từ các yếu tố kể trên, chuyên gia của Rand
Corporation cho rằng khi thách thức Việt Nam tại Băi
Tư Chính, Trung Quốc có thể là đang thăm ḍ
độ bền chắc của mối quan hệ quân
sự ngày càng sâu sắc giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam. Theo ông
Grossman, Việt Nam đă băn khoăn nghiêm túc về
tính bền vững của các cam kết an ninh của
Hoa Kỳ đối với các đồng minh. Vụ
Trung Quốc lấn chiếm băi cạn Scarborough từ
tay Philippines vào năm 2012 là ví dụ điển h́nh
khiến cho Việt Nam thận trọng. Vào năm 2014,
nhân vụ giàn khoan Hải Dương 981, Việt Nam cũng
chỉ được Mỹ ủng hộ bằng
lời nói, tương tự như lúc này nhân vụ Băi
Tư Chính. Đối
với chuyên gia Grossman, ngoài việc trắc nghiệm
quan hệ Mỹ-Việt, không may cho Việt Nam, rất
có thể là vụ Băi Tư Chính là cơ hội mà Quân
Đội Trung Quốc t́m kiếm để kiểm tra
năng lực phối hợp tác chiến ngày càng tăng
của họ. Chuyên gia
Grossman đă phân tích ư đồ đánh Việt Nam
để tập luyện này trong một bài nghiên
cứu công bố hồi tháng 5. Tuy nhiên, để có
thể tập luyện đúng nghĩa, Trung Quốc
bị buộc phải điều tàu chiến đến
khu vực, và điều đó chưa xẩy ra. Dẫu sao
th́ Việt Nam hiện không có liên minh quân sự
với bất kỳ nước nào, và chỉ là
một cường quốc trung b́nh, với quân đội,
lực lượng chấp pháp và dân quân biển c̣n
thiếu kinh nghiệm chiến đấu trên biển, nên
có thể bị đánh bại tương đối
dễ dàng. Quan
hệ chặt chẽ hơn với Mỹ sẽ có
sức răn đe Trung Quốc Cho dù
vậy, theo chuyên gia Grossman, có lẽ câu hỏi nổi
bật hơn hết trong vụ Băi Tư Chính hiện
nay là Việt Nam có thể làm ǵ để ngăn
chặn Trung Quốc ? Đối
với ông Grossman, cho dù việc tăng cường quan
hệ đối tác quốc pḥng với Mỹ, trước
mắt có thể gây rắc rối cho quan hệ
Việt-Trung, nhưng hợp tác Mỹ-Việt chặt
chẽ hơn về lâu dài có thể giúp Việt Nam ngăn
chặn Trung Quốc bởi v́ Bắc Kinh sẽ hiểu
rơ là Việt Nam có thể được Mỹ hỗ
trợ trong trường hợp nổ ra xung đột.
C̣n đối với Mỹ, chuyên gia Grossman cho rằng Washington sẽ phải chứng minh rằng họ sẽ không để xảy ra một vụ băi cạn Scarborough thứ hai. Tăng cường hợp tác với Việt Nam, và với các đối tác quốc pḥng khác như Úc, Nhật Bản và Ấn Độ, cũng có thể giúp ngăn chặn Bắc Kinh. |