Tài
liệu tham khảo:
Biden’s summit with Southeast Asian
leaders postponed (Politico)
Rethinking the Philippines’ Deterrence
in the South China Sea (Diplomat)
US, Philippines kick off their
largest-ever war games as defence ties deepen amid China tensions (SCMP)
Philippines Calls Out Dangerous Chinese
Actions Near Disputed Shoal (Diplomat)
Chính sách Bốn Không làm VN cô
quạnh khi có quyền lợi chung với Mỹ? (TS
Nguyễn Tiến Hưng)
NGUY CƠ ĐANG R̀NH
RẬP TRÊN BIỂN NAM TRUNG HOA
Đại-Dương
Phi
Luật Tân dưới thời Tổng thống Rodrigo
Duterte (2016-2022) công khai thần phục Tập Cận B́nh
trong khi Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa Việt Nam
nâng biện pháp ngoại giao từ 3 thành 4 Không (Không
tham gia liên minh quân sự; Không cho bất cứ nước
nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam;
Không dựa vào nước này để chống nước
kia; Không sử dụng vũ lực hoặc đe
dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ
quốc tế) nhằm làm vừa ḷng Bắc Kinh.
Hai
thành viên quan trọng nhất trong Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) không có đồng minh
mạnh hỗ trợ th́ Việt Nam và Phi Luật Tân
sẽ làm lá chắn cho tham vọng bá quyền Biển
Nam Trung Hoa cho Trung Quốc.
Cuộc
xâm lăng chưa thành công suốt một tháng qua
của Nga vào láng giềng Ukraine quá tàn ác và vô luân
khiến cho dư luận ít lưu ư tới Biển Nam
Trung Hoa có thể dậy sóng bất cứ lúc nào mà
thiệt tḥi nhất phải kể tới Việt Nam,
Phi Luật Tân hai quốc gia rất cần trong chiến
lược làm chủ vùng biển này liên quan đến
tranh chấp quân sự và tài nguyên thiên nhiên.
Do
đó, Bắc Kinh sử dụng nhiều biện pháp khác
nhau nhằm kéo Việt Nam và Phi Luật Tân phục
vụ cho chiến lược của Trung Quốc.
Nhưng,
giải pháp cho Biển Nam Trung Hoa cứ như ma trơi,
nay hiện mai biến.
Lịch sử Biển Nam
Trung Hoa
Trung
Quốc và tất cả các quốc gia Duyên hải
Đông Nam Á tuy khác nhau, nhưng, có những nét tương
đồng khó thay đổi: tinh thần đế
quốc.
Qua
bao thời đại, chính quyền có thay đổi
danh nghĩa mà đầu óc độc tài, độc
đoán vẫn như kim chỉ nam trong việc tổ
chức và điều hành quốc gia: Tu thân, Tề gia,
Trị quốc, B́nh thiên hạ. Tinh thần đế
quốc vẫn đóng vai tṛ chủ đạo nên khó
xây dựng một đất nước do người
dân quyết định vận mệnh.
V́
thế, họ sống trong môi trường nghi kỵ
lẫn nhau, đặc biệt trong vấn đề lănh
thổ mà ai cũng viện mọi lư do để
chứng minh là của tiền nhân để lại
dẫn tới chính sách bành trướng bá quyền.
Chiến tranh luôn luôn ŕnh rập, đặc biệt
trong vùng biển mênh mông mà ai cũng xác quyết do
tiền nhân lưu lại.
Chủ quyền quốc gia
trên Biển Nam Trung Hoa (SCS)
Vùng
biển mênh mông này chứa nhiều tài nguyên nên người
Việt Nam thường ví như “tiền rừng,
bạc biển”. Khoảng gần 500 triệu người
hiện đang sinh sống trải dài từ Tân Gia Ba
tới Eo biển Đài Loan rộng 3.4 triệu km2,
chiều dài bờ biển 130,000 km. Nhưng, Bắc Kinh
xác định vùng biển bao la này thuộc về Trung
Quốc dù chỉ chiếm 2,800 km bờ biển.
SCS
chiếm 8% lượng cá trên thế giới cộng thêm
lượng dầu hoả, khí thiên nhiên và băng cháy
(natural hydrate hoặc gas hydrate), “nguyên liệu tương
lai”, v́ trữ lượng dầu khí trên thế
giới chỉ c̣n 60 năm nữa là cạn kiệt.
Tuy
nhiên, vấn đề tranh chấp chủ quyền
biển đảo trên Biển Nam Trung Hoa hầu như
bế tắt do các quốc gia liên hệ đều không
thực thi đúng đắn Công ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS),
đă có hiệu lực từ năm 1994.
UNCLOS
làm thay đổi tất cả khái niệm cũng như
các luật lệ trên biển đă có từ trước.
Nhưng, các quốc gia đă kư hoặc phê chuẩn
đều phớt lờ một số quy định
trong UNCLOS nên tạo ra các vụ tranh chấp dựa vào
sức mạnh quân sự. Điều này có lợi cho
Bắc Kinh nhiều nhất bởi v́ Giải phóng quân
Trung Quốc có sức mạnh tuyệt đối trên
phương diện nhân lực và khí giới trang
bị trên Biển Nam Trung Hoa so với Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Chủ
quyền trên SCS của Trung Quốc như vết
dầu loang trước sức chống trả yếu
ớt của các Quốc gia Duyên hải Đông Nam Á.
H́nh thức tranh chấp trên
SCS
Cộng
đồng quốc tế có hai cách tranh chấp chủ
quyền trên biển. Đó là tranh chấp chủ
quyền và tranh chấp quyền-chủ-quyền
được phán xét ở hai Toà án Quốc tế khác
nhau.
Toà án Công lư Quốc tế
(ICJ) là cơ quan pháp lư
quốc tế chuyên xét xử vụ án “tranh chấp
chủ quyền”, kể cả chủ quyền trên
biển. Toà án chỉ thụ lư vụ án nếu cả
hai bên đương sự đồng ḷng yêu cầu
được phán xét. Tuy nhiên, ICJ không có cơ
chế trừng phạt kẻ vi phạm nên hiệu
lực c̣n tuỳ thuộc vào thiện chí của các bên
tranh tụng. Phán quyết của ICJ góp phần duy tŕ
luật pháp quốc tế trên Biển.
Muốn
kiện về chủ quyền quốc gia phải
nhờ tới Toà án Công lư Quốc tế. Thập niên
1930, Pháp Quốc nhân danh “quyền bảo trợ An Nam
tức Việt Nam” đă hai lần đâm đơn
kiện Trung Hoa trong thập niên 1930 liên quan đến
chủ quyền Paracel Islands (Hoàng Sa, Tây Sa) và Spratly
Islands (Trường Sa, Nam Sa). Trung Hoa từ chối ra Toà
nên ICJ không thể phân xử. Các quốc gia Duyên
hải Đông Nam Á cũng không có ư định
nhờ ICJ phân xử nên chủ quyền biển,
đảo trên Biển Nam Trung Hoa vẫn chưa
được xác định thỏa đáng.
Trong
khi đó Toà án Trọng tài
Thường trực về Luật Biển (PCA) do
UNCLOS thành lập từ năm 1982 để phán xét
về quyền-chủ-quyền và quyền-tài-phán trên
biển đă xét xử thoả đáng một vài
vụ kiện liên quan ở vài nơi trên thế
giới tạo được sự ổn định,
tránh nguy cơ chiến tranh quyền hạn trên
Biển.
PCA
được quy định có quyền phân xử mà
không cần sự có mặt của bị đơn. Phán
quyết của Toà vẫn có giá trị pháp lư và mang tính
chung thẩm.
Năm
2013, Philippines đâm đơn kiện Trung Quốc lên
PCA liên quan đến quyền-chủ-quyền và
quyền-tài-phán trên Biển Nam Trung Hoa. Bắc Kinh
từ chối tham gia. Năm 2015, PCA tuyên bố có đủ
thẩm quyền thụ lư và xét xử vụ án này.
Ngày 12/07/2016,
Toà án Trọng tài Thường trực về UNCLOS công
bố phán quyết: “Quyền lịch sử và
Đường 9 đoạn không có cơ sở pháp lư
nào cho việc Trung Quốc yêu sách chủ quyền
lịch sử đối với các tài nguyên ở các
vùng biển nằm bên trong Đường Chín Đoạn.
Không có thực thể nào ở Spratly Islands (Trường
Sa, Nam Sa) có thể mang lại Vùng Đặc quyền
Kinh tế (EEZ) cho Trung Quốc. Bắc Kinh đă vi
phạm quyền-chủ-quyền của Philippines. Các
hoạt động bồi đắp và xây dựng nhân
tạo trên 7 cấu trúc của Nhóm đảo Trường
Sa do Trung Quốc thực hiện đă gây hại nghiêm
trọng với môi trường biển và vi phạm
nghĩa vụ bảo tồn và bảo vệ các hệ
sinh thái”.
Dù
Bắc Kinh ngang ngược mà Phán quyết này vẫn
vạch trần bộ mặt Đế quốc gian ác
của Trung Quốc trong nền bang giao quốc tế.
Vai tṛ của Hải quân
quốc tế trên SCS
Họ
không có nghĩa vụ can thiệp vào các vụ tranh
chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các
Quốc gia Duyên hải Đông Nam Á. Bổn phận
của họ nhằm duy tŕ quyền tự do hàng
hải trên Biển Nam Trung Hoa theo đúng quy định
của UNCLOS.
Do
đó, khó xảy ra các vụ xung đột quân sự
v́ điều đó không có lợi cho Trung Quốc và các
Hải quân hùng hậu trên thế giới.
Sự
hiện diện đúng lúc và kịp thời của
Hải quân Quốc tế ở khu vực tranh chấp có
thể hoá giải hoặc làm giảm nguy cơ xung
đột, chèn ép trên Biển. Họ chỉ đóng
vai tṛ trực tiếp khi có Hiệp ước Pḥng
thủ chung với quốc gia đang bị chèn ép. Phi
Luật Tân có Hiệp ước Pḥng thủ Hổ tương
với Hoa Kỳ từ năm 1951, nhưng, Hoa Thịnh
Đốn chỉ kích hoạt khi Manila rơi vào trường
hợp nguy kịch.
Nhiệm vụ của các
Quốc gia Duyên hải Đông Nam Á
Biển
Nam Trung Hoa có thể bùng nổ bất cứ lúc nào
đ̣i hỏi các Quốc gia Duyên hải Đông Nam Á
phải t́m một giải pháp hữu hiệu hầu
bảo vệ quyền-chủ-quyền và quyền-tài-phán
trước tham vọng vô bờ của Tân Đế
Quốc Cộng sản Trung Quốc.
Thứ nhất,
Hải quân của các Quốc gia Duyên hải Đông
Nam Á không bao giờ cân bằng lực lượng
với Trung Quốc nên cần đồng minh mạnh làm
đối trọng. Một sự hiểu sai về vai
tṛ của Hoa Kỳ trên Biển Nam Trung Hoa khiến cho các
quốc gia duyên hải Đông Nam Á lơ là về
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và
quyền-chủ-quyền và quyền-tài-phán của
Tổ Quốc.
Hiệp
ước Pḥng thủ Hỗ tương Hoa Kỳ-Phi
Luật Tân năm 1951 viết “sẽ cùng nhau tham
khảo ư kiến … khi sự toàn vẹn lănh thổ,
độc lập chính trị hoặc an ninh của
một trong hai Bên bị đe dọa bởi cuộc
tấn công vũ trang ở Thái B́nh Dương”.
Cụ thể, các vụ Lực lượng Dân quân
Biển của Trung Quốc tấn công tàu, thuyền
của Phi Luật Tân chưa đủ điều
kiện để kích hoạt Hiệp ước.
Tức
giận Tổng thống Barack Obama làm mất Băi
Scarborough vào tay Trung Quốc năm 2012 nên Tổng
thống Rodrigo Duterte ngả theo Bắc Kinh và tuyên
bố rút khỏi Hiệp ước với Mỹ.
Tổng thống Donald Trump đáp gọn “Hoa Kỳ
khỏi tốn tiền”. Duterte hoảng hồn đính
chính: “sẽ tuân thủ Hiệp ước”.
Hoạt
động của Hải quân Hoa Kỳ trên Biển Nam
Trung Hoa chỉ nhằm bảo vệ quyền hàng
hải chính đáng được Công ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS)
quy định mà không can thiệp vào tranh chấp
chủ quyền biển, đảo.
Tân
Gia Ba là một đồng minh Hỗ tương, không
hiệp ước, nhưng, hợp tác chặt chẽ
với Hoa Kỳ trên nhiều phương diện,
kể cả cho phép Khu trục hạm, Cận duyên
hạm Tác chiến, Phi cơ Hải tuần của Hoa
Kỳ đồn trú để giám sát Biển Nam Trung
Hoa.
Cho
tới nay, Bộ Quy tắc ứng xử (CoC) ở
Biển Đông cũng chưa đi tới đâu v́
Bắc Kinh loại các cường quốc biển,
kể cả Hoa Kỳ khỏi các điều khoản
CoC.
Thứ hai,
Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapore
phải xây dựng thành một Lực lượng
Đặc biệt chống sự bành trướng
của Đế quốc Phương Bắc. Từ
đó, hợp tác với các Hải quốc hùng
mạnh mà duy tŕ một Biển Nam Trung Hoa hoạt động
phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển năm 1982.
Thứ ba, Hải quân các quốc gia Duyên hải Đông Nam Á
phải phối hợp với các cường quốc
biển để cùng thực hiện Tự do Hàng
hải (FONOP) mà xác lập quyền được ghi
trong UNCLOS. Phải chứng tỏ, các Quốc gia Duyên
hải Đông Nam Á có trách nhiệm và khả năng
hợp tác bảo vệ quyền tự do hàng hải trên
Biển Nam Trung Hoa th́ mới xứng đáng làm chủ
nhân vùng biển giàu tài nguyên thiên nhiên này.
Thứ tư, các vấn đề liên quan đến SCS phải
do Tân Gia Ba, Mă Lai Á, Phi Luật Tân, Việt Nam, Brunei,
Indonesia giải quyết mà không nên đưa tới
Cộng đồng Kinh tế ASEAN chắc chắn
sẽ thất bại. Thái Lan, Lào, Myanmar, Cambodia không liên
quan trực tiếp tới vấn đề tranh
chấp trên Biển Nam Trung Hoa nên họ nghiêng về phía
Bắc Kinh để hưởng lợi.
Đường
đi không khó v́ ngăn sông, cách núi mà khó v́ ḷng
ngại núi, e sông.
Đại-Dương
|