Tuần qua đánh
dấu mốc lịch sử đen tối nhất
của đất nước ta: cách đây đúng
nửa thế kỷ, ngày 27/1/1973 là ngày mà cái gọi là
‘Ḥa Ước Paris’ -Paris Peace Agreement- được
kư, trên nguyên tắc chấm dứt cuộc nội
chiến tương tàn đẫm máu nhất lịch
sử đất nước ta, nhưng thực tế
lại chính là giấy khai tử của một quốc
gia, VNCH.
DĐTC xin mở
lại trang sử đen tối này, với chủ đích
giúp những thế hệ tị nạn con cháu hiểu
rơ hơn một chút chuyện ǵ đă xẩy
ra cho đất nước ta, tại sao chúng lại
đang sống trên đất người.
Phải nói ngay, bài này
không bàn về cái ngưng
chiến tại VN qua con mắt của sử gia hay chuyên
gia phân tích chính trị, mà chỉ viết lại
những suy tư của một người dân ngu khu
đen miền Nam, nạn nhân của thời thế và
các giàn xếp của các
quan lớn của các đại cường.
Ḥa Ước Paris
1973: ḥa b́nh da beo
Chiến tranh VN
của Mỹ coi như bắt đầu khoảng năm
1960, tới 1968 đă là 8 năm, quá lâu đối
với mấy anh Mỹ mà tính kiên nhẫn mỏng hơn
tờ giấy trong khi tính tự cao tự đại
lớn hơn núi Thái Sơn, không hiểu nổi
tại sao ḿnh vẫn chưa thắng, mà như anh nhà báo
kỳ cựu Walter Cronkite đă nói trên đài
truyền h́nh CBS sau trận Mậu Thân, "Mỹ vô phương
chiến thắng tại VN". TT Johnson nghe được
câu này, nói ngay "Tôi
mất Conkrite là tôi mất dân Mỹ" (đại ư, không
nhớ nguyên văn).
TT Johnson mất hết ư chí
chiến đấu, quay qua quay lại, chỉ muốn t́m
cách tháo chạy mà không mất mặt quá. Ông đi qua
không biết bao nhiêu trung gian, môi giới quốc
tế, công khai cũng như kín đáo, để t́m cách
điều đ́nh. Cái tệ hại là Mỹ mù
tịt chẳng hiểu nổi cái ù lỳ
tự tin của VC, nghiến răng nghiến lợi
nhất định 'đánh chứ không đàm' hay cùng
lắm th́ 'vừa đánh vừa đàm' chứ không có
chuyện 'ngưng đánh
để đàm', v́ những tay dép râu vô bằng
cấp này lại hiểu rơ vận hành của thể
chế chính trị Mỹ và tâm lư quần chúng Mỹ
hơn xa các PhD Mỹ hiểu đám cuồng cộng
qua các computers của McNamara. Trong con mắt VC, Johnson càng
cuống cuồng t́m thỏa thuận th́ càng có nghĩa
Mỹ biết tất thua và
t́m đường tháo chạy, VC càng ù lỳ
lâu càng có lợi, cho dù có chết thêm vài chục ngàn
tên bộ đội th́ cũng chẳng nghĩa lư ǵ.
Đưa đến t́nh trạng VC cù nhầy tranh căi
h́nh thù cái bàn hội nghị cả mấy tháng
trời. Câu giờ tối đa chờ một Điện
Biên Phủ thứ hai.
Hội nghị Paris
khai mạc 10/5/1968, kéo dài tới 27/1/1973 mới kư
được thỏa thuận, mất gần 5 năm.
Mà cái đáng nói là đă mất tới 5 năm,
chết thêm không biết bao nhiêu vạn mlính,
tốn không biết bao nhiêu tỷ đô, mới đạt
được một ḥa ước mà kết quả là
Mỹ buông súng tháo chạy vứt bỏ miền Nam VN
vào tay CSBV sau một 'khoảng cách đỡ mất
mặt' -decent interval- là 2 năm 3 tháng. Thực tế mà
nói cái tháo chạy đó đúng ra không cần tới
5 năm tranh căi, đă có thể có ngay từ 1968, đỡ
tốn biết bao nhiêu xương máu Mỹ và
Việt, bắc cũng như nam. Mà chắc chắn cũng
đỡ 'mất mặt' hơn tháo chạy từ nóc
ṭa đại sứ.
Nh́n vào những
điểm chính của Ḥa ước Paris 1973 ngay khi
đó, không ai không thấy đó là một ḥa ước
tương đương với một đầu hàng
gần như vô điều kiện của Mỹ đồng
thời là bản án tử h́nh cho VNCH tuy ngày xử
tử không được ghi rơ ràng. Dưới đây
là 3 điểm then chốt nhất:
1- Mỹ rút hết quân
về nước, CSBV giữ hết quân ở lại.
Ḥa ước đ̣i hỏi tất cả các lực lượng
quân sự 'nước ngoài' phải rút ra khỏi
Miền Nam, nên chỉ có lính Mỹ và đồng minh
như Úc, Đại Hàn,... rút ra thôi, c̣n bộ đội
CSBV v́ là lính Việt Nam, KHÔNG phải lính 'nước
ngoài' nên khỏi cần rút. Chuyện bắc và nam
VN là hai 'nước' khác biệt, với hai chính
quyền, hai chính sách, ... bị xù qua,
không ai nhắc tới; vĩ tuyến 17 không có thực
nên CSBV có băng qua cũng chẳng ai để ư. Danh
từ quan trọng nhất là 'nước ngoài' v́ Ḥa
ước liên tục nhấn mạnh những
chuyện như lính 'nước ngoài', can thiệp
của 'nước ngoài',... Nhưng vấn đề là
'nước ngoài' nghĩa là ǵ. VC diễn giải đó
là những ǵ 'không phải VN', mà CSBV hay MTGP đều
là VN hết, không phải 'nước ngoài' nên
những cấm cản đối với 'nước
ngoài' không áp dụng. Mỹ hiểu đó là tất
cả những nước ngoài Nam VN, kể cả BV, nhưng
Mỹ cũng hiểu CSBV hiểu như thế nào, nhưng
nhắm mắt làm ngơ.
2 - Quan trọng không kém là trong
khi ai cũng biết cuộc chiến sẽ tiếp
tục giữa VNCH và CSBV, th́ trong ḥa ước này,
yếu tố sinh tử là VNCH sẽ không c̣n được
Mỹ yểm trợ bằng những cuộc ném bom
cực kỳ hữu hiệu của B-52 và các phản
lực chiến đấu Mỹ, và ngay cả không quân
VNCH cũng sẽ không c̣n được tiếp tế
xăng và bom cần
thiết. Hệ quả sẽ như thế nào, ai cũng
biết trước nhưng không ai muốn nói tới.
3 - Cái Mặt Trận b́nh phong
được tấn phong thành một chính quyền
ngang hàng với chính quyền VNCH, có quyền ngồi
ngang hàng với CSBV và VNCH để điều đ́nh
về tất cả mọi chuyện, từ ngưng
bắn cho tới h́nh thức tổ chức chính
trị cho miền Nam. Tuyệt đối chỉ
miền Nam, không đụng tới miền Bắc.
Đó là nói chuyện nguyên tắc. Trên thực tế,
v́ chỉ thảo luận về chuyện miền Nam,
những vấn đề liên quan trực tiếp đến
miền Nam, nên CSBV làm như ông bố ngồi chủ
tŕ xem hai thằng con Nam cờ điều đ́nh hay
đánh nhau. Chính quyền VNCH bị tuột xuống
ngang hàng với cái 'chính quyền ma Mặt Trận.
Nếu muốn
đặt tên cho chính xác Ḥa Ước Paris 1973, th́
phải gọi đó là Hiệp Ước Rút Quân
Của Mỹ, hay kém lịch sự hơn th́ đó là
Hiệp Ước Mỹ Tháo Chạy, chứ không
thể gọi là hiệp ước chấm dứt
chiến tranh VN, mang lại ḥa b́nh cho miền Nam VN, v́
chiến tranh trong Nam VN đă không ngưng một phút nào,
người dân miền Nam không thấy ḥa b́nh một
phút nào. Nếu nói ḥa b́nh, th́ hiển nhiên ḥa ước
đă mang lại ḥa b́nh cho Bắc VN khi hết bị
bom Mỹ, trong khi trong Nam, chỉ là tạm hưu
chiến để Mỹ tháo chạy, rồi chiến
tranh vẫn tiếp tục. Lê Đức Thọ đă
rất thành thật không nhận giải Nobel ḥa b́nh v́
chiến tranh VN chưa chấm dứt, VN chưa có ḥa b́nh.
So sánh Johnson, Nixon và
Biden
Hai vị tổng
thống đă có những quyết định sinh
tử cho miền Nam VN dĩ nhiên là TT Johnson và Nixon.
Biden không phải TT, nhưng đă cùng các đồng
chí DC, dùng dao chặt đứt cuống rốn giữ
miền Nam VN khỏi chết.
a. TT Lyndon Johnson
TT Johnson không thích
nh́n vào bản đồ thế giới. Ông là người
chỉ muốn nh́n vào nước Mỹ, ôm mộng
gọi là Great Society, xây dựng một 'Đại Xă'
Mỹ thịnh vượng trong mô thức xă nghĩa
hồng nhạt.
Bất th́nh ĺnh PTT
Johnson trở thành TT khi TT Kennedy bị ám sát chết.
Đại họa đến với ông chính là
chiến tranh VN. Ông phân vân tính toán, do dự, không dám
dứt khoát. Thật ra, TT Johnson rất hận chiến
tranh VN v́ chiến phí quá cao đă cản việc xây
dựng Great Society của ông. Nhưng ông cũng không
muốn mang tiếng là TT đầu tiên thua trận,
để lính TQLC oai hùng của Mỹ thua mấy tên lính
dép râu, trong khi lại kẹt không dám đánh mạnh,
sợ TC nhẩy vào như
ở Triều Tiên. Nói trắng ra, TT Johnson đánh không
phải để thắng mà đánh để khỏi
thua thôi.
Cái chần chừ
không dám quyết định dứt khoát, không muốn
thắng, đưa đến việc áp dụng sách lược
leo thang nhỏ giọt, từng bước, chỉ
đưa đến hậu quả tất nhiên là
chiến tranh leo thang, càng ngày càng tốn tiền
thuế dân Mỹ, tốn mạng thanh niên Mỹ, gây phân
hóa trong chính trường Mỹ, mà chẳng đi đến
đâu, hay chính xác hơn, càng vào thế bị dân
Mỹ chống đối v́ họ không thấy
được một 'tia ánh sáng cuối đường
hầm' nào.
Quư độc
giả tinh mắt sẽ thấy câu trên chẳng có
một chữ nào bàn về nước VN, dân VN, chính
quyền VN, hay quân lực VN hết. Chỉ v́ trong con
mắt của Johnson nói riêng và của Mỹ nói chung,
Nam VN không phải là một thực thể, chẳng có
tiếng nói v́ chẳng hiện diện. Bộ trưởng
Quốc Pḥng của TT Johnson, ông McNamara sau này viết
hồi kư về chiến tranh VN. Trong cuốn sách dầy
đâu 300 trang, ông ta viết về dân Nam VN, chính
quyền Nam VN và quân lực Nam VN đâu được
vài ba chục trang, chỉ v́ trong con mắt của
McNamara, chiến tranh VN là chiến tranh Mỹ xẩy
ra trên cái mảnh đất
gọi là VN. Ngay cả những thảo luận ngưng
chiến, cũng là thảo luận của Mỹ
(với đối thủ CSBV), trong khi Nam VN đứng
ngoài, không có tiếng nói v́ chẳng là cái thá ǵ.
Để rồi
cuối cùng, TT Johnson cũng đành phải nhả cái
gân gà VN, bỏ cuộc, không ra tranh cử năm 1968, bán
cái cho anh nào kế nhiệm.
b. TT Richard Nixon
TT Nixon khác với
TT Johnson. Nixon lo nh́n vào bản đồ thế giới
v́ ông có cái nh́n chiến lược toàn cầu, trong
đó, phải làm sao bảo vệ thế đứng
của Mỹ chống lại các phong trào thiên tả thân
cộng đang nổi mạnh trong cái
khối gọi là Đệ Tam Thế Giới. Đối
nội, Nixon có quan điểm bảo thủ, coi như
thỏa măn với t́nh trạng hiện hữu của
Mỹ, không cần thay đổi, cũng chẳng
cần Great Society. Nước Mỹ của Nixon chính là
sản phẩm của thời Eisenhower khi Nixon làm PTT.
Điều cần thay đổi là cán cân ảnh hưởng
và quyền lực thế giới, với mục tiêu rơ
nét là khai thác tranh chấp Nga - Tầu để tạo
một thế chân vạc tay ba, dễ thở hơn cho
Mỹ.
Trong sách lược
đó, chiến tranh VN là chướng ngại vật
khổng lồ cần phải bứng đi, nhất là
khi VN, cả Nam và Bắc, đều chỉ là loại
tiểu quốc không đáng để cản đường
xây dựng thế giới chân vạc tay ba giữa các
siêu cường. Vấn đề của Nixon là
phải bứng cho khéo, để Mỹ khỏi mang
tiếng bỏ đồng minh, không phải v́ Nixon thương
đồng minh, mà chỉ v́ bỏ đồng minh
sẽ làm suy yếu Mỹ trong cái thế ba chân
vạc.
Do đó, TT Nixon cũng
cố gắng hết sức làm một cái ǵ để
Mỹ rút ra 'trong danh dự' trong khi cho miền Nam VN
một cơ hội sống c̣n sau khi Mỹ ra đi. Ông
tung quân qua Căm Pu Chia,
thả bom Lào và đường ṃn HCM, cho mưa bom
xuống Hà Nội, đặt ḿn ở Hải Pḥng.
Những việc mà Johnson không dám nghĩ tới, khoan nói
tới dám làm. Nhưng Nixon bị chống đối tàn
bạo hơn gấp bội Johnson, đặc biệt
từ khối DC trong quốc hội Mỹ, v́ dù sao th́
TT Johnson cũng là phe DC
với nhau trong khi Nixon là kẻ thù CH.
Chuyện giả tưởng
lịch sử: nếu Nixon không bị những tay như
Biden bắt chẹt cắt hết quyền lực trong
cuộc chiến tại VN, nếu Nixon không gặp
nạn Watergate, nếu c̣n Nixon, đại họa 30 tháng
4 đă không xẩy ra.
Thứ nhất v́ cá tính mạnh của Nixon, và thứ
nh́ v́ Nixon coi việc mất hay bỏ Nam VN sẽ
khiến đồng minh, kẻ thù, và cả thế
giới coi thường Mỹ, khiến cái chân vạc
Mỹ yếu thế hẳn so với hai chân vạc Liên
Xô và Trung Cộng, nên Nixon sẽ không cho phép xẩy
ra chuyện CSBV tung toàn quân tràn qua Lào và vĩ tuyến
17 chiếm cả miền Nam bằng bạo lực.
Rất có thể ngay từ 1974, Nixon đă tung B-52
tiêu diệt vài sư đoàn CSBV trên 'xa lộ HCM', hay
thả bom tàn phá miền bắc. Ai biết được?
Thực tế theo các tài liệu lịch sử, năm
1974, Nixon đă có kế hoạch trải thảm bom B-52 trên cái 'xa lộ' đó, nhưng không thực
hiện được v́ đang phải tự cứu
sống trong vụ Watergate.
Dù sao th́ kết
quả cuối cùng là từng bước từng bước,
cả Johnson lẫn Nixon đều muốn thoát cái
nợ VN. Trong những năm từ sau 1968, dư
luận quần chúng Mỹ hiển nhiên chống
việc Mỹ tham gia chiến tranh VN khá mạnh, nhưng
dường như cả TT Johnson lẫn Nixon đều
muốn bỏ VN v́ những tính toán riêng của
họ, không hẳn v́ sợ chống đối của
quần chúng. Johnson chán VN v́ không thể thực
hiện Great Society trong khi Nixon coi VN như một trở
ngại trong chiến lược chân vạc toàn
cầu.
c. TNS Biden
Joe Biden khi đó
chỉ là thượng nghị sĩ, mới đắc
cử lần đầu tiên vào thượng viện và
tuyên thệ nhậm chức tháng Giêng 1973, như TNS
trẻ tuổi nhất của đảng DC, khi ông
mới 31 tuổi.
Tuy là tay mơ
mới nhập cuộc, nhưng ông Biden ra tranh cử và
đắc cử TNS dựa trên lời hứa sẽ t́m
mọi cách rút Mỹ ra khỏi Nam VN. Do đó, trong
suốt thời gian 2 năm 4 tháng từ ngày nhậm
chức tới ngày 30/4/1975, TNS Biden đă không bỏ
lỡ một lần nào, luôn luôn biểu quyết
cắt đứt mọi viện trợ quân sự cho
QLVNCH, ngăn cản mọi hành động của
Mỹ như cấm viện trợ quân sự cho Căm
Pu Chia, cấm mang lính Mỹ đánh Căm Phu Chia,
cấm thả bom Lào và BV,...
Trong khi các TT Johnson và
Nixon cố gắng bằng mọi giá, mọi cách để
cứu miền Nam mà thất bại, th́ Biden ngay từ
đầu đă không có một ly lo lắng cho sự
sống c̣n của Nam VN, mà chỉ có một ưu tư
duy nhất: bỏ Nam VN càng sớm càng tốt, bất
cần số phận nước Việt và dân
Việt. Chính sự chống đối một cách
thẳng tay nhất của Biden và đám đồng chí
DC mà TT Nixon đă bị trói tay, có muốn giúp Nam VN
nhiều hơn cũng không được.
Biden chủ trương
bất cần dân Việt sống chết ra sao. Cũng
chẳng muốn một anh tị nạn da vàng Việt
nào trên đất Mỹ. Ông chỉ cần đến
đám dân Việt tị nạn tại Mỹ khi ông ta
ra tranh cử, cần phiếu của họ năm 2020 thôi.
Và đáng buồn thay, không ít dân tị nạn
đă và vẫn ủng hộ Biden. Có lẽ để
trả ơn Biden đă giúp chấm dứt chiến
tranh, cho miền Nam đại bại để họ có
dịp được sống yên ổn trong thiên đàng
trợ cấp và funds Mỹ?
Tóm lại:
- TT Johnson muốn đánh
mạnh để thắng, khỏi mang tiếng TT đầu
tiên thua một cuộc chiến, nhưng lại sợ
đại chiến với TC, nên rụt dè,
leo thang nhỏ giọt, rồi bỏ trốn.
- TT Nixon coi VN như trở
ngại lớn trong chiến lược chân vạc
thế giới, nhưng không muốn tháo chạy v́
sợ sẽ khiến Mỹ yếu thế, mất uy tín
quốc tế trong cái chân vạc đó, muốn thanh toán
mạnh, nhưng bị quốc hội DC trói tay. Lại
bị kẹt trong x́-căng-đan chính trị Watergate.
- TNS Biden, ra tranh cử với
chủ trương bỏ Nam VN vô điều kiện,
bất cần biết số phận dân VN, v́ ngửi
thấy mùi dân Mỹ chống chiến tranh, và ông đă
chống chiến tranh, dễ kiếm phiếu cho ông hơn.
Biden cả đời chỉ là theo thời cơ
chủ nghĩa, 'cuốn theo chiều gió chính trị',
chẳng hạn kỳ thị da đen rồi chuyển
qua thượng tôn da đen, chống hôn nhân đồng
tính rồi nhẩy qua
cổ vơ hôn nhân đồng tính, chống phá thai nhân
danh Công giáo rồi đảo qua sống chết
bảo vệ phá thai,...
Cả hai TT Johnson và
Nixon đều cố cứu, rồi bỏ VNCH v́ lư do
riêng, chỉ có TNS Biden bất cần VNCH ngay từ
đầu.
So sánh với Ḥa
Ước Paris 1973 với Ḥa Ước Genève 1954
Nếu muốn so sánh
hai ḥa ước Paris và Genève,
có lẽ phải nghĩ ngay đến cái mỉa mai vĩ
đại của lịch sử:
1954: Pháp muốn rút ra trong danh
dự, Mỹ áp lực Pháp rút ra bằng mọi giá.
1973: Mỹ muốn rút ra trong danh
dự, Pháp áp lực Mỹ rút ra bằng mọi giá.
Trước
hết, ta bàn qua bối cảnh tổng quát của Ḥa
Ước Genève 1954.
Sau khi Hitler bị đánh
bại th́ Pháp lại bị chi phối bởi giấc
mộng tái dựng lại Đại Đế Pháp
của De Gaulle, lo chiếm lại quyền lực
tại các thuộc địa, đặc biệt là
Đông Dương và Bắc Phi. Đáng tiếc cho De
Gaulle, Pháp sau thế chiến đă kiệt quệ, không
c̣n đủ nhân sự, tiền bạc, ư chí để
ôm đồm giấc mộng quá lớn đó. Đặc
biệt là giấc mộng tái thống trị Đông Dương
lại gặp phải một đối thủ
khổng lồ là Mao. Những thắng lợi nhỏ
ban đầu chống Việt Minh dưới thời tướng
De Lattre De Tassigny mau chóng nhường chỗ cho những
‘khó khăn’ vĩ đại khi De Lattre bất
ngờ qua đời v́ ung thư trong khi Mao biến
cả cái xứ Tầu khổng lồ thành hậu phương
vĩ đại của Việt Minh.
Trên phương
diện chính trị nội bộ, Pháp suy yếu hơn
bao giờ hết khi chế độ nghị trường
của Pháp, đưa đến cảnh nội các lên
rồi đổ, rồi lên để lại đổ
như chong chóng. Đă vậy, nước Pháp khi đó
không hồ hởi ǵ với việc Pháp trở về
chiếm các thuộc địa, nhất là khi Mỹ áp
lực mạnh để trả độc lập
lại cho tất cả các thuộc địa. Đến
phiên một ông tên là Pierre Mendès-France lên làm thủ tướng,
ông ŕnh ràng cam kết giải quyết chiến tranh
Đông Dương bằng mọi giá trong một
thời gian ngắn nhất định, nếu không
sẽ từ chức.
Chưa kể trên
phương diện quân sự, chiến lược
dụ dỗ Việt Minh ra mặt, đánh lớn để
Pháp dễ tiêu diệt chúng hơn đă quật ngược
lại, đưa đến Điện Biên Phủ,
một đại thảm họa vừa quân sự,
vừa chính trị, vừa tâm lư, vừa tài chánh cho Pháp,
khiến Pháp không c̣n chịu nổi, phải tháo
chạy.
Đưa đến
kết quả khá hấp tấp của ḥa đàm Genève:
chia đôi lănh thổ VN tại vĩ tuyến 17, mà
Mỹ và Quốc Gia VN không chịu kư nhưng vẫn tuân
thủ phần nào.
So với ḥa ước
Paris năm 1973 sau này, ta thấy có những khác biệt
cũng như tương đồng căn bản mà
hậu quả đều tai
hại vô lường cho phía quốc gia.
a. Ḥa Ước
Genève 1954:
- Vô h́nh chung đă đẻ ra
một ‘nước’ mới, cho VM và Hồ Chí Minh nhẩy
vọt từ một đám du kích lang thang trong rừng
núi, lên thế chính danh của một quốc gia,
một lănh thổ, một thủ đô, một lá
cờ, một chính quyền mà ngay
sau đó toàn thể khối CS quốc tế đă mau
chóng nh́n nhận. Chưa kể có được
một tiếng nói quan trọng trong bàn tiệc quốc
tế tại Genève.
- Cho VM một nửa nước,
với đầy đủ nguồn lợi tức kinh
tế, tài chánh, thuế má,
và nhất là dân số khi miền bắc lại là
nửa đông dân hơn xa nửa phía nam, ngay
từ đó đă là thiệt tḥi lớn cho phía
quốc gia v́ vừa cung cấp một nguồn nhân
lực vô giá cho quân lực của chúng cũng như
cho số cử tri nếu Ḥa Ước Genève
được tuân thủ đàng hoàng, với tổng
tuyển cử cùng lúc cho cả hai miền vào năm
1956.
- Trên nguyên tắc, việc phân
chia đất nước trong hai năm giúp cơ
hội đồng đều cho cả hai bên QG và CS xây
dựng đất nước, củng cố vị
thế và hậu thuẫn chính trị trong hai năm trước
khi có tổng tuyển cử, thống nhất đất
nước dưới phe thắng cử. Trên thực
tế, cái khoảng cách hai năm từ 1954 tới 1956
chính là cái mà sau này được gọi là một
thứ khoảng cách đỡ mất mặt cho
chiến thắng trọn vẹn của phe CS, v́ ai cũng
thấy nếu có tổng tuyển cử, không có cách nào
Quốc Gia VN có thể thắng VNDCCH. Ông Ngô Đ́nh
Diệm là người chưa ai biết tới hay nghe tên,
trong khi miền Nam lại mang tiếng vẫn là
thuộc địa của Pháp với ông vua bù nh́n
chỉ lo ăn chơi bên Pháp. Chính trường
miền Nam cũng rối bù với muôn vàn khó khăn mà
hai năm không thể nào đủ để giải
quyết: từ loạn sứ quân B́nh Xuyên, Ḥa
Hảo, Cao Đài, tới các đảng phái đủ
kiểu như Quốc Dân Đảng, Đại
Việt lập cả chiến khu để chống chính
quyền Sài G̣n,... tới cả triệu dân di cư
từ bắc đổ vào. Trong khi ông Hồ chính là người
được tiếng đă hy sinh xương máu
để dành được độc lập ít
nhất cho một nửa nước, mà cái nửa nước
đó lại ổn định hơn xa miền nam.
- Pháp phủi tay, nhưng Ḥa
Ước Genève ít ra cũng c̣n để lại
một con đường sống cho Quốc Gia VN khi
trao miền Nam lại cho Mỹ, rồi hy vọng Mỹ
trong hai năm, có thể hóa phép đưa miền Nam vào
thế đủ mạnh, có thể đương
đầu và thắng tổng tuyển cử, hay bi quan
hơn, nếu CSBV gây chiến tranh xâm lược, có
thể bảo vệ miền Nam. Dù sao Mỹ cũng là
đại cường đă từng một tay tiêu
diệt phát-xít Đức, phát-xít Nhật, lại
vừa đánh bại cả Trung Cộng ở Nam Hàn.
- Trên phương diện
thuần túy quân sự, quân lực hai bên được
phân cách rơ rệt, bộ đội VM ra bắc, lính Pháp
và lính quốc gia vào nam. Hiển nhiên, với sự
tập trung tách biệt rơ rệt như vậy, t́nh
trạng hưu chiến dễ kiểm soát hơn, và có
thể thực hiện được phần lớn.
Thực tế mà nói, VN đă có ḥa b́nh khi CSBV không vi
phạm hưu chiến trong Nam cho măi tới năm 1959,
trong khi Mỹ không ném bom BV cho tới năm 1964.
b. Ḥa Ước
Paris 1973:
- Trên nguyên tắc, tuy
không khai sanh ra một ‘nước’ mới, nhưng
lại đẻ ra một chính quyền mới là
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN, tuy cả
thế giới đều thấy rơ tính giả tạo
và bù nh́n, cho dù cả khối CS và đám truyền thông
thân cộng của Âu Mỹ vẫn cố bám vào cái
mặt nạ thô bạo đó.
- Cũng có cái gọi là
‘khoảng cách đỡ mất mặt’, nhưng
tệ hơn Ḥa Ước Genève ở điểm không
có mốc thời gian hai năm ǵ hết. Tất cả
là chuyện khả năng của chính quyền miền
Nam chống cự được tới đâu và bao lâu,
sớm muộn ǵ là chuyện của miền Nam. Có
thể vài tháng, vài năm, ai biết được?
Kissinger sau này nh́n nhận ông ta trước đó đă
nghĩ tới khoảng một năm rưỡi.
- Cũng là t́nh trạng phủi
tay như Pháp, nhưng tệ hơn xa v́ không c̣n xứ
nào thay Mỹ nhẩy vào
cứu miền Nam. Nghĩa là Mỹ phủi tay một cách
tàn nhẫn, bất cần biết -hay chính xác hơn-
biết chắc miền Nam sớm muộn ǵ cũng rơi
vào tay CSBV. Mỹ chỉ lo tháo chạy, c̣n giải pháp
chính trị nào cho VN, đó là chuyện ‘mấy chú BV
và NV lo với nhau đi, chúng tôi đi nghỉ v́
mệt rồi'. Coi như miền Nam chết chắc sau
cái ‘decent interval’.
- Ḥa Ước Paris trên nguyên
tắc để cho hai anh BV và NV đánh nhau hay nói
chuyện với nhau, nghe có vẻ cân bằng; nhưng
trên thực tế miền Nam bắt đầu phải
đánh một ḿnh khi Biden và quốc hội Mỹ
cấm mọi quân viện trở lại, trong khi
miền Bắc tiếp tục nhận được
bạc tỷ viện trợ quân sự của khối
CS quốc tế Liên Xô và Trung Cộng. Một cuộc
chiến châu chấu VNCH đá voi CSQT
Nga-Tầu-BV, kết quả cuối cùng ra sao, chẳng
ai không biết trước.
- Khác với Ḥa Ước Genève,
bây giờ chẳng có chuyện quân lực tập trung
lại trong hai khu vực riêng rẽ, trái lại, t́nh
trạng mập mờ gọi là da beo được duy
tŕ, và thảm hại hơn nữa, có từ hơn
100.000 tới 150.000 (gần
15 sư đoàn!) bộ đội chính quy của CSBV
được phép ở lại miền Nam, chẳng ai
biết đích xác con số, mà chẳng có một
sự hạn chế hay kiểm soát cụ thể và
hữu hiệu nào. Đưa đến t́nh trạng Ḥa
Ước Genève tạo ra được 'ḥa b́nh' tương
đối trong khoảng 5-10 năm, trong khi Ḥa Ước
Paris không có ngưng chiến được tới 5-10
phút. Muốn biết triển vọng tồn tại
thật sự của Ḥa Ước Paris, chỉ cần
nh́n vào bản đồ Đông Dương nói chung và
VN nói riêng thời đó: ai dám tin cái thứ ḥa b́nh da
beo kiểu này có thể thành công, kéo dài được?
TT Thiệu có nên kư Ḥa Ước
Paris 1973 không?
Đây là câu
hỏi giả tưởng v́ thực tế là TT
Thiệu đă kư rồi.
Công bằng mà nói, TT
Thiệu bị đặt trong thế không kư không
được. Ông Thiệu là người có tham
vọng cá nhân cực lớn mà cũng ranh ma hơn
tất cả các tướng lănh 'chiến hữu',
lẳng lặng gặm nhấm quyền hành trong hậu
trường, để rồi cuối cùng thanh toán
hết các tướng đối lập, độc
chiếm quyền hành. Thế nhưng vẫn c̣n một
thế lực cực lớn mà chẳng những ông không
kiểm soát được mà trái lại khiến ông
rất sợ từ ngày TT Diệm bị giết. Đó
là thế lực Mỹ, Xịa.
Cái thỏa hiệp
của Nixon, chính ông Thiệu cũng đă cố cưỡng
lại, không chịu kư, cho đến cuối cùng, không
chịu nổi áp lực của Nixon, đành phải kư.
Cho dù 2 đ̣i hỏi chính của ông Thiệu (CSBV rút
quân, củng cố vùng phi quân sự vĩ tuyến 17),
chẳng đạt được cái nào, mà chỉ
đạt được vài sửa chữa chi tiết
về ngôn ngữ trong ḥa ước. Ông ở trong
thế bắt buộc phải công khai chống ḥa ước,
nhưng ông cũng hiểu đến một lúc nào
đó th́ ông cũng phải kư nếu không muốn
đi theo ông Diệm.
Câu hỏi
lớn: tại sao phải kư? Không kư th́ sao? Nếu TT
Thiệu là người thật sự v́ đất nước,
đúng ra ông đă phải từ chối không chịu
kư, bất kể áp lực nào của Nixon. Đường
cùng th́ từ chối kư, rồi công khai lên TV thông báo
cho dân biết cái hại của ḥa ước, tố cáo
những áp lực của Mỹ, rồi từ chức
ngay sau đó. Rất có thể sẽ chẳng đi
đến đâu, Mỹ vẫn thỏa hiệp với
CSBV, ra đi, bỏ VNCH. Cũng có thể TT Thiệu
sẽ bị giết. Dù sao th́ nếu không kư rồi ra
đi hay chết, th́ tên tuổi ông Thiệu cũng
đă đi vào lịch sử một cách hiên ngang, oai hùng
nhất. Rất tiếc có lẽ ông Thiệu đă coi
mạng sống quan trọng hơn tiết khí cá nhân
hay việc lưu danh trong sử sách. Nguyễn Văn
Thiệu hiển nhiên không phải là Nguyễn Khoa Nam
hay Phan Thanh Giản.
Cuối cùng th́ TT
Thiệu cũng đă phải lên TV tố cáo Mỹ
rồi từ chức. Nếu ông làm việc này ngay
từ tháng Giêng 1973 thay v́ tháng Tư 1975 th́ lịch
sử đă viết tên ông bằng chữ hoa lớn
rồi.
Nếu nói ông
Thiệu nghĩ cứ kư rồi sau đó sẽ đủ
mạnh để chống lại CSBV với cả
khối CS quốc tế sau lưng trong khi VNCH đứng
một ḿnh, th́ hiển nhiên đă quá khinh thường
ông Thiệu. TT Thiệu dù sao cũng không ngây thơ
đến vậy.
Ở đây, kẻ này
có một thắc mắc thật lớn. Cũng trong
thời gian tranh căi về ḥa ước đó,
truyền thông VNCH sau này dưới quyền ông Hoàng
Đức Nhă, đă tung hô ông Nhă như một thiên tài
trong tuyệt đỉnh của thông minh sáng suốt,
đă khám phá ra những sơ hở ngôn ngữ trong
bản nháp ḥa ước, ép buộc được
cả Mỹ lẫn VC phải sửa đổi vài
điều.
Cái 'sơ hở vĩ
đại' mà ông Nhă rất hănh diện khoe đă khám
phá ra liên quan đến một khác biệt giữa
một cụm từ tiếng Việt dịch qua
tiếng Anh: trong bản tiếng Anh mà Kissinger đưa
cho ông Nhă th́ cơ cấu 'liên hiệp' có trách
nhiệm điều hành cả nước, được
ghi là 'cơ cấu hành chánh', nhẹ h́u; nhưng trong
bản Việt ngữ của VC th́ lại được
ghi là 'cơ cấu chính quyền', rất nặng kư.
Xin lỗi, nhưng kẻ này thật sự không tin trong
đám cả chục, cả trăm phụ tá, siêu
cố vấn, ban tham mưu của Kissinger lại không có
ai nh́n thấy cái khác biệt này, để chỉ có
ông Nhă mới thấy, và cứu được
miền Nam VN. Nói Kissinger biết nhưng đồng lơa
với Lê Đức Thọ cố t́nh lừa VNCH cũng
không chỉnh v́ khác biệt quá lộ liễu chẳng
cần một thiên tài thật cao siêu mới khám phá ra
được. Bất cứ người Việt nào không
tin VC, đ̣i coi lại bản tiếng Việt sẽ
thấy ngay lập tức. Các đại sứ Bùi
Diễm hay Trần Kim Phượng cũng chỉ
cần 3 giây đồng hồ là thấy ngay.
Câu hỏi lớn:
những 'khám phá' của ông Nhă, một cách cụ
thể và thực tế, đă giúp được ǵ
cho đất nước ta? Có cứu được nước
ta không? Hay những khám phá và thay đổi đó,
thật ra đă khiến ông Thiệu mất hết lư
do chính đáng và chính danh để không kư ḥa ước?
C̣n bất đồng th́ c̣n lư do không kư, chứ
nêu ra bất đồng để rồi cả Kissinger
lẫn Lê Đức Thọ đồng ư sửa theo ư
ông Thiệu do đề nghị của ông Nhă, th́ có
phải là ông Thiệu đă mất hết lư dó
bác ḥa ước để rồi phải kư không? Có
khi nào những thiếu sót sơ khởi trong ḥa ước
đă chính là những cái bẫy cố t́nh được
bầy ra để ông Nhă và ông Thiệu bắt sửa
đổi, để rồi sau đó cả Kissinger
lẫn Lê Đức Thọ chấp nhận sửa
đổi sau khi Nixon dương oai bằng cách trải
thảm bom lên Hà Nội, đưa TT Thiệu đến
thế kẹt cứng phải kư v́ hết lư do
phản đối?
Chuyện cái
bẫy nghe có vẻ như chuyện 'phong thần', nhưng
nh́n vào các diễn viên chính trong tấn tuồng ḥa
ước, ít ai cho rằng ông kỹ sư điện
31 tuổi HĐNhă đă là
đối thủ cân tay của các tay ma đầu chính
trị Lê Đức Thọ (khi đó 62 tuổi, cả
đời ở tù hay trong rừng chống Pháp, Mỹ,
quân đội QG và QLVNCH) và Kissinger (50 tuổi, đă
từng 'đánh phé' với
Chu Ân Lai và Mao).
Ở đây kẻ
này chỉ đưa ra một giả thuyết có tính
giả tưởng để mọi người suy nghĩ
thêm, tuyệt đối không có ư dám chê bai ông Nhă hay
ông Thiệu, là những người mà kẻ này chưa
xứng đáng xách dép đi theo. Nửa thế kỷ
sau, nh́n lại, lúc nào cũng có vẻ 'sáng suốt' hơn,
lư luận hay ho hơn. Thực tế là TT Thiệu cũng
như ông Nhă khi đó đă không được hưởng
cái 'xa xi phẩm' 50 năm
ung dung b́nh tĩnh suy nghĩ kỹ từ đầu
đến đuôi.
Ḥa Ước Paris
sau đó đă được cả chục đại
cường xác nhận và bảo đảm qua một
hội nghị quốc tế đàng hoàng, nhưng khi
CSBV xua xe tăng qua vĩ tuyến 17 th́ tất cả
mọi bảo đảm bị xe tăng nghiền nát
hết, thế giới im lặng như tờ, không
một ai nhắc tới hội nghị bảo đảm
quốc tế ǵ. CSBV cắm cờ Mặt Trận trên
Dinh Độc Lập, để rồi vài ngày sau,
vứt cái cờ dỏm đó vào thùng rác. Các 'lănh
đạo' bù nh́n của Mặt Trận, nếu không
muốn được phong làm tượng đá như
Nguyễn Hữu Thọ, chỉ c̣n nước chạy
ra ngoại quốc đấm ngực than trời,
nhận tội ḿnh đă quá ngu như Trương Như
Tảng.
Lúc sau này, có
nhiều người Việt phân tích, rồi hô hoán,
tố cáo và lên án VC vi phạm Ḥa Ước Paris. Xin
lỗi, tố cáo VC gian trá
vi phạm ḥa ước chỉ là làm chuyện vớ
vẩn, ruồi bu. VC có khi nào tôn trọng lời
hứa hay hiệp định nào bao giờ đâu mà
khiếu nại? Chẳng khác ǵ khiếu nại...
củ khoai !
Dù sao th́ cái
bất hạnh cho chúng ta là VNCH chỉ là một
tiểu quốc, một con chốt nhỏ trên bàn
cờ chiến lược thế giới, có bị thí
th́ cũng chẳng có ǵ lạ, và cũng chẳng
khiếu nại với ai được. Ngay bây
giờ, đám tị nạn có bực ḿnh, bàn dza bàn
dzô th́ cũng chỉ là bàn... cho nhau nghe, ngoài ra,
chẳng ai... cares!
VŨ LINH
|